Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bộ ba mã di truyền”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 29:
* Sau khi mô hình ADN được khám phá và công bố năm 1953,<ref name=":0">Phạm Thành Hổ: "Di truyền học" - [[Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam|Nhà xuất bản Giáo dục]], 1998</ref> các nhà khoa học mà chủ yếu là [[Francis Crick]] và [[James Dewey Watson]] đã giả thuyết rằng: ADN mã hóa ARN, còn ARN mã hóa prôtêin từ đó đặc điểm của cơ thể được hình thành.<ref>https://courses.lumenlearning.com/boundless-biology/chapter/the-genetic-code/</ref> Giả thuyết này được tóm tắt bằng sơ đồ mà hiện nay, học sinh trung học nào cũng biết, nói lên vai trò trung tâm trong cơ chế di truyền là thuộc về ADN, mà không phải là prôtêin như trước đó khẳng định:
 
ADN → ARN → Prô-tê-inProtein → Tính trạng.
 
Sơ đồ này được xem là một trong những nền tảng của [[luận thuyết trung tâm]] (central dogma) nói trên.<ref>{{chú thích web | url = https://www.khanacademy.org/science/biology/gene-expression-central-dogma/central-dogma-transcription/a/the-genetic-code-discovery-and-properties | tiêu đề = The genetic code | author = | ngày = | ngày truy cập = 16 tháng 9 năm 2018 | nơi xuất bản = Khan Academy | ngôn ngữ = }}</ref>
Dòng 35:
Từ sơ đồ, có thể mô tả là: Mã gốc → Mã phiên → Bản dịch.
 
* Theo chính Crick, thì George Gamow là người đầu tiên giả định mỗi đơn vị mã di truyền (codon) là một bộ ba (triplet).<ref>{{chú thích web | url = https://en.wikipedia.org/wiki/Genetic_code | tiêu đề = Genetic code | author = | ngày = | ngày truy cập = 16 tháng 9 năm 2018 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref> Sau đó, Marshall Nirenberg và Heinrich J. Matthaei là những người đầu tiên khám phá ra bản chất của một đơn vị mã (codon) vào năm 1961.<ref name=":0" /><sup>,</sup> <ref>{{chú thích web|url=https://en.wikipedia.org/wiki/J._Heinrich_Matthaei|tiêu đề=J. Heinrich Matthaei|author=|ngày=|ngày truy cập=16 tháng 9 năm 2018|nơi xuất bản=|ngôn ngữ=}}</ref> Đến năm 1964, bảng mã di truyền được công bố trên tạp chí Nature, trong đó 64 bộ ba của mARN được xác định nhờ M.W. Nirenberg cùng cộng sự và H.G. Khorana, được trao giải Nobel 1968.<ref>{{chú thích web | url = https://www.nobelprize.org/prizes/medicine/1968/summary/ | tiêu đề = The Nobel Prize in Physiology or Medicine 1968 | author = | ngày = | ngày truy cập = 16 tháng 9 năm 2018 | nơi xuất bản = NobelPrize.org | ngôn ngữ = }}</ref> Thành tựu này giúp ta hiểu rằng: mỗi đơn vị mã (codon) gồm một bộ ba (triplet) nu-clê-ô-titnucleotit. Các khám phá tiếp theo về cấu trúc và chức năng của tARN ([[ARN vận chuyển]]) chủ yếu do công lao của Alex Rich và Don Caspar (ở Boston), của Jacques Fresco và cộng sự (ở Princeton) và một nhóm các nhà khoa học Anh ở King's College Luân Đôn. Năm 1965, Robert W. Holley thuộc Đại học Cornell đã công bố cấu tạo của tARN, rồi lần lượt là thành tựu kết tinh tARN nhờ Robert M. Bock; cuối cùng được xác nhận bằng các nghiên cứu tinh thể học nhờ tia X vào năm 1974 bởi hai nhóm độc lập nhau gồm Alexander Rich và Kim Sung-Hou, còn nhóm kia do Aaron Klug đứng đầu.<ref name="Brian F.C. Clark (October 2006)">{{chú thích tạp chí|tiêu đề="The crystal structure of tRNA" |url=doi:10.1007/BF02705184. PMID 17206065.}}</ref> Nhờ vậy mà ta biết được tARN có đối mã (anticodon) và cấu trúc 3D của nó. Như vậy, theo sơ đồ của [[luận thuyết trung tâm]], ADN mang mã gốc sẽ được chuyển đổi thành mã phiên của [[ARN thông tin]], rồi mã phiên này được [[ARN vận chuyển]] có đối mã mà giải mã này thành a-xit a-min tương ứng trong quá trình [[dịch mã]], từ đó tính trạng hình thành.
 
==Tóm tắt==