Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Lạnh”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Sửa câu cú Thẻ: Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao |
|||
Dòng 49:
{{Lịch sử Chiến tranh Lạnh}}
'''Chiến tranh Lạnh''' '''(Cold War)''' là một thời kì căng thẳng địa [[chính trị]] giữa [[Liên Xô]] và những quốc gia vệ tinh ([[khối Đông Âu]]) với [[Hoa Kỳ]] với những đồng minh ([[Tây Âu|Khối phương Tây]]) sau [[Thế chiến II]]. ''Chiến tranh Lạnh'' bắt đầu từ năm 1946 (năm bức điện báo với tựa đề ''Long Telegram'' của nhà ngoại giao Hoa Kì [[George F. Kennan|George F.Kennan]] từ [[Moskva]] đã đề ra một chính sách đối ngoại của [[Hoa Kỳ]] về việc ngăn chặn cái mà nước này gọi là chủ nghĩa bành trướng của [[Liên Xô]]) và năm 1947
Những nước tư bản phương Tây được dẫn dắt bởi [[Hoa Kỳ]], một quốc gia theo thể chế [[cộng hòa liên bang]] với hệ thống chính trị [[đa đảng]], cũng như những quốc gia ''First-World'' (chỉ những quốc gia liên kết chung với [[NATO]] hoặc chống lại [[Liên Xô]] trong Chiến tranh lạnh). Đại đa số các quốc gia ''First-World'' là các nước [[cộng hòa]] hoặc [[quân chủ lập hiến]] cũng với hệ thống chính trị đa đảng và những tổ chức độc lập, nhưng về mặt kinh tế và chính trị thì bị ràng buộc chặt chẽ với một mạng lưới của những quốc gia cộng hòa nhỏ bé và những chế độ [[độc tài]] khác, hầu hết trong số đó là các thuộc địa cũ của Khối phương Tây{{sfn|G. Jones |2014 |pp=176–79}}. [[Liên Xô]] tự tuyên bố mình là một quốc gia theo [[Chủ nghĩa Marx-Lenin]] áp dụng hệ thống chính trị [[độc đảng]] được lãnh đạo bởi một cấp lãnh đạo cao nhất là [[Bộ Chính trị|Bộ chính trị]]. Đảng cộng sản lãnh đạo toàn bộ quốc gia, báo chí, quân sự, kinh tế và những tổ chức địa phương khắp ''Second World'' (''Second World'' chỉ những quốc gia vệ tinh hoặc đồng minh của [[Liên Xô]]), bao gồm những thành viên của [[Hiệp ước Warsaw]] và những quốc gia khác theo [[Hệ thống xã hội chủ nghĩa|Hệ thống XHCN]]. [[Điện Kremlin]] đã tài trợ tiền của cho những đảng cộng sản trên khắp thế giới nhưng bị thách thức quyền lực bởi [[Cộng hòa nhân dân Trung Hoa]] của [[Mao Trạch Đông]] theo sau đó là sự [[Chia rẽ Trung-Xô|chia rẽ Trung Quốc-Liên Xô]] vào khoảng những năm 1960. Gần như tất cả các quốc gia thuộc địa đã giành được độc lập trong khoảng thời gian 1945-1960, họ đã trở thành ''Third World'' (những quốc gia trung lập) trong Chiến tranh Lạnh.{{sfn|G. Jones |2014 |pp=176–79}}
[[Ấn Độ]], [[Indonesia]] và [[Nam Tư]] đã đi đầu trong việc thúc đẩy tính trung lập với [[Phong trào không liên kết|Phong trào Không liên kết]], nhưng các quốc gia này không bao giờ có nhiều [[quyền lực]] theo đúng nghĩa. Liên Xô và Hoa Kỳ chưa từng tham gia trực tiếp vào một cuộc chiến tranh vũ trang toàn diện. Tuy nhiên, cả hai đều vũ trang mạnh mẽ để chuẩn bị cho một [[Chiến tranh hạt nhân|cuộc chiến tranh hạt nhân toàn diện]] có thể xảy ra. Trung Quốc và Hoa Kỳ đã tham chiến trong một cuộc chiến tranh thương vong cao [[Chiến tranh Triều Tiên|tại Triều Tiên]] (1950-53) mà kết thúc với sự bế tắc. Mỗi bên đều có một chiến lược hạt nhân riêng nhằm ngăn cản một cuộc tấn công của phía bên kia, trên cơ sở một cuộc tấn công như vậy sẽ dẫn đến sự hủy diệt hoàn toàn của kẻ tấn công - Học thuyết về sự hủy diệt lẫn nhau được đảm bảo (MAD). Bên cạnh những [[Cuộc đua vũ khí hạt nhân|phát triển kho vũ khí hạt nhân của cả hai bên]], và triển khai của họ về lực lượng quân sự thông thường, cuộc đấu tranh cho vị trí thống trị được thể hiện qua các cuộc [[chiến tranh ủy nhiệm]] trên toàn cầu, [[chiến tranh tâm lý]], chiến dịch tuyên truyền lớn và [[Hoạt động gián điệp thời Chiến tranh Lạnh|hoạt động gián điệp]], cấm vận gây ảnh hưởng sâu rộng, sự ganh đua các môn [[thể thao]] ở các sự kiện và các cuộc thi công nghệ như [[Chạy đua vào không gian|Cuộc chạy đua vào không gian]].
Giai đoạn đầu của [[Chiến tranh Lạnh (1947-1953)]] đã bắt đầu trong 2 năm đầu tiên sau khi kết thúc [[Thế chiến II]] (1945). [[Liên Xô]]
Những năm trong thập niên 1970, cả hai bên bắt đầu trở nên quan tâm hơn trong việc xem xét để tạo ra mối quan hệ quốc tế ổn định và dễ dự đoán hơn, mở đầu cho một giai đoạn ''lắng dịu'' (de'tence) bao gồm việc "Đàm phán giới hạn vũ khí chiến lược" và quan hệ cởi mở của [[Mỹ]] với [[Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc|Cộng hòa nhân dân Trung Hoa]] như một chiến lược đối trọng tới USSR. Sự lắng dịu đã sụp đổ tại những năm cuối thập niên 70 với sự bắt đầu của [[Chiến tranh Liên Xô-Afghanistan]] trong năm 1979. Những năm đầu thập niên 1980 là một giai đoạn đã gia tăng căng thẳng, với việc [[Liên Xô]] bắn hạ máy bay [[Chuyến bay 007 của Korean Air Lines|KSL-Filght-007]] của [[Nam Triều Tiên]] và những đợt diễn tập quân sự ''Ablee Archer'' của [[NATO]], cả hai đều ở năm 1983. [[Hoa Kỳ]] đã tăng sức ép kinh tế, ngoại giao, quân sự lên [[Liên Xô]], vào thời điểm Liên Xô đã bị trì trệ kinh tế. Vào ngày 12 tháng 6 năm 1982, một triệu người [[biểu tình]] đã tụ tập ở [[Công viên Trung tâm]], [[New York (thành phố)|New York]] để kêu gọi kết thúc chạy đua vũ trang, chiến tranh Lạnh và đặc biệt là giải trừ vũ khí hạt nhân. Giữa những năm 1980, lãnh đạo mới [[Mikhail Gorbachev]] đã đưa ra những sự cải cách tự do hóa ''[[perestroika]]'' (1987) (tên một hoạt động chính trị cho sự cải cách trong [[Đảng Cộng sản Liên Xô]] trong suốt những năm của thập niên 80) và ''[[glasnost]]'' (cởi mở, 1985) và kết thúc sự dính líu quân sự của Liên Xô vào Afghanistan. Sức ép
Chiến tranh Lạnh và những sự kiện của nó đã để lại một sức ảnh hưởng đến tận ngày nay. Nó thường được nói tới trong [[văn hóa đại chúng]] (đặc biệt với thành công quốc tế của loạt sách và phim của thương hiệu James Bond) cũng như sự đe dọa của [[chiến tranh hạt nhân]]. Trong khi đó, một sự căng thẳng quốc gia lặp lại giữa quốc gia kế thừa [[Liên Xô]] là [[Nga]], và [[Hoa Kỳ]] trong những năm sau 2010 (bao gồm những đồng minh phương Tây) và sự gia tăng căng thẳng giữa cường quốc mới nổi [[Trung Quốc]] với [[Hoa Kỳ|Mỹ]] và đồng minh phương Tây
== Những nguồn gốc của thuật ngữ ==
|