Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Minh Mạng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
n Đã lùi lại sửa đổi của Phạm Văn Rạng (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của Hadesfire996
Thẻ: Lùi tất cả
Dòng 54:
| tôn giáo = [[Nho giáo]]
}}
'''Minh Mạng''' ([[chữ Hán]]: 明命 [[25 tháng 5]] năm [[1791]] – [[20 tháng 1]] năm [[1841]]) hay '''Minh Mệnh,''' là vị [[hoàng đế]] thứ hai của [[nhà Nguyễn|Hoàng triều Nguyễn]] nước [[Các tên gọi của nước Việt Nam|Đại Nam]]. Ông trị vì từ năm [[1820]] đến khi qua đời, được truy tôn miếu hiệu là '''Nguyễn Thánh Tổ''' (阮聖祖). Tuy có một số ít chính sách hơi sai lầm hạn chế và 1 số ít những chuyện tranh cãi;, song giới sử gia đương đại cũng như là ngày nay vẫn đánh giá Minh Mạng là vị vua kiệt xuất nhất của Hoàng triều [[Nhà Nguyễn]] cũng như là 1 trong những vị vua cũng như 1 trong những nhà lãnh đạo vĩ đại nhất trong [[lịch sử Việt Nam]] với 1 tư duy rộng mở,chăm chỉ,tốt,tham vọng.
 
Trong 21 năm trị nước, Minh Mạng ban bố hàng loạt [[đổi mới|cải cách]] về nội trị. Ông đổi tên nước [[Việt Nam]] thành [[Đại Nam]], lập thêm [[Nội các]] và [[Cơ mật viện]] ở [[cố đô Huế|Huế]], bãi bỏ chức Tổng trấn [[Hà Nội|Bắc thành]] và [[Gia Định thành]], đổi trấn thành tỉnh, củng cố chế độ lưu quan ở miền núi. [[Quân đội nhà Nguyễn|Quân đội]] cũng được xây dựng hùng mạnh. Minh Mạng còn cử quan đôn đốc khai hoang ở ven biển [[Bắc Kỳ|Bắc kỳ]] và [[Nam Kỳ|Nam kỳ]]. Ngoài ra, ông rất quan tâm đến việc duy trì nền khoa cử [[Nho giáo]], năm [[1822]] ông mở lại các kì [[thi Hội]], [[thi Đình]] ở kinh đô để tuyển chọn nhân tài. Ông nghiêm cấm truyền bá [[kitô giáo|đạo Cơ Đốc]] vì cho rằng đó là thứ tà đạo làm băng hoại truyền thống dân tộc. Về đối ngoại, Minh Mạng không đưa ra cải cách nào, ông tiếp tục duy trì chính sách của [[Gia Long]]: tự cô lập, khước từ mọi giao lưu với [[phương Tây]], cấm người dân buôn bán với ngoại quốc, điều khiến [[Đại Nam]] dần tụt hậu do không tiếp thu được các thành tựu mới về khoa học kỹ thuật,tuy nhiên thì tâm Minh Mạng vẫn thoáng mở.
 
Thời Minh Mạng, trong nước liên tục xảy ra [[bạo loạn|nội loạn]] và chiến tranh khiến quân Nguyễn hoạt động tích cực. Trong nước liên tiếp xảy ra các cuộc nổi dậy của nông dân chống lại triều đình ([[Phan Bá Vành]], [[Lê Duy Lương]], [[Nông Văn Vân]],… ở miền Bắc và [[Lê Văn Khôi]] ở miền Nam). Trong 21 năm cai trị, đã có tới 234 cuộc nổi dậy chống triều đình trên cả nước, nhà vua phải sai nhiều tướng đánh dẹp rất mệt nhọc nhưng quân Nguyễn thành công.
 
Đối với các nước láng giềng, Minh Mạng sử dụng vũ lực nhiều lần: lập các phủ [[Trấn Ninh]], Lạc Biên, Trấn Định, Trấn Man nhằm khống chế [[Lào|Ai Lao]]; [[Chiến tranh Việt-Xiêm (1833–1834)|đánh bại Xiêm La]]; bảo hộ [[Chân Lạp]], chiếm vùng [[Phnôm Pênh|Nam Vang]] ([[Phnôm Pênh]] ngày nay) và đổi tên thành [[Trấn Tây Thành]]; kết quả là nước Đại Nam thời đó có lãnh thổ rộng hơn cả hiện nay. Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh đó đã làm hao mòn quốc khố nên nhà Nguyễn đã không giữ được các lãnh thổ mới đánh chiếm. Sau khi Minh Mạng mất, [[Đại Nam]] đã phải rút quân khỏi Trấn Tây Thành, chỉ 7 năm sau khi chiếm được vùng này. Nhiều lãnh thổ khác cũng bị [[Xiêm La]] đánh chiếm (nay thuộc về nước [[Lào|Lào),]] nên lãnh thổ nhà Nguyễn sau thời Minh Mạng bị co hẹp lại, gần giống như Việt Nam hiện nay;tuy nhiên, ngài cũng góp phần làm tăng vị thế chính trị của xứ Việt.
 
==Thân thế==