Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Văn Hai”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 129:
Đầu năm 1965, ông được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng tỉnh [[Phú Yên]] thay thế Trung tá [[Phạm Anh (Đại tá, Quân lực VNCH)|Phạm Anh]].<ref>Trung tá Phạm Anh sinh năm 1929 tại Thừa Thiên, tốt nghiệp trường Hạ sĩ quan của Quân đội Pháp, giải ngũ ở cấp Đại tá. Dân biểu Quốc hội Đệ nhị Cộng hòa.</ref> Ngày Quốc khánh Đệ Nhị Cộng hòa 1 tháng 11 cùng năm, ông được thăng cấp [[Trung tá]] tại nhiệm. Cuối năm 1967, ông được thăng cấp [[Đại tá]] tại nhiệm.
 
Hạ tuần tháng 3 năm 19681966, ông được lệnh bàn giao chức vụ Tỉnh trưởng Phú Yên lại cho Trung tá [[Nguyễn Văn Bá (Đại tá, Quân lực VNCH)|Nguyễn Văn Bá]].<ref>Trung tá Nguyễn Văn Bá sinh năm 1923 tại Quảng Bình, tốt nghiệp khóa 1 Võ bị Huế. Sau cùng là Đại tá Tuỳ viên Quân sự cạnh Sứ quán VNCH tại Thủ đô Tokyo, Nhật Bản.</ref> Ngay sau đó, ông được bổ nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Biệt động quân Trung ương. Đầu tháng 6 cùng năm 1968, ông bàn giao Bộ chỉ huy Biệt động quân lại cho Trung tá [[Trần Công Liễu (Đại tá, Quân lực VNCH)|Trần Công Liễu]]<ref>Trung tá Trần Công Liễu sinh năm 1932 tại Bà Rịa, tốt nghiệp khóa 8 Võ bị Đà Lạt. Sau cùng là Đại tá Thị trưởng kiêm Đặc khu trưởng Đặc khu Cam Ranh.</ref>. Sau đó ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng giám đốc Tổng nha Cảnh sát Quốc gia thay thế Thiếu tướng [[Nguyễn Ngọc Loan]] được cử giữ chức vụ Thanh tra tại Bộ Quốc phòng.
 
Tháng 7 năm 1970, ông được thăng cấp [[Chuẩn tướng]] tại nhiệm. Sau đó, ông được lệnh bàn giao chức vụ Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia lại cho Thiếu tướng [[Trần Thanh Phong]], để đi nhận chức vụ Tư lệnh Biệt khu 44 (gồm 4 tỉnh: Kiến Tường, Kiến Phong, Châu Đốc và An Giang).