Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vốn con người”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tạo với bản dịch của trang “Human capital
Tạo với bản dịch của trang “Human capital
Dòng 12:
 
== Lịch sử ==
[[Arthur Lewis]] được cho là đã bắt đầu lĩnh vực [[Kinh tế học phát triển|kinh tế phát triển]] và ý tưởng về vốn nhân lực khi ông viết vào năm 1954 "Phát triển kinh tế với nguồn cung cấp lao động không giới hạn". <ref>W. Arthur Lewis (1954) [ftp://ftp.uic.edu/pub/depts/econ/wpaper/cchis/docs533/Economic%20Development%20with%20Unlimited%20Supplies%20of%20Labour%20-%20Arthur%20Lewis.pdf "Economic Development with Unlimited Supplies of Labour."]{{Liên kết hỏng|date=November 2017}}</ref> Thuật ngữ "vốn con người" đã không được sử dụng do cảm xúc tiêu cực của nó cho đến khi nó được [[Arthur Cecil Pigou]] thảo luận lần đầu tiên: {{Quote|There is such a thing as investment in human capital as well as investment in material capital. So soon as this is recognised, the distinction between economy in consumption and economy in investment becomes blurred. For, up to a point, consumption is investment in personal productive capacity. This is especially important in connection with children: to reduce unduly expenditure on their consumption may greatly lower their efficiency in after-life. Even for adults, after we have descended a certain distance along the scale of wealth, so that we are beyond the region of luxuries and "unnecessary" comforts, a check to personal consumption is also a check to investment.<ref>{{cite book |authorlink=Arthur Cecil Pigou |last=Pigou |first=Arthur Cecil |title=A Study in Public Finance |year=1928 |publisher=Macmillan |location=London |page=29 |isbn= }}</ref>}} Việc sử dụng thuật ngữ này trong tài liệu [[Kinh tế học|kinh tế]] [[Kinh tế học tân cổ điển|tân cổ điển]] hiện đại bắt nguồn từ bài viết "Đầu tư vào nguồn nhân lực và phân phối thu nhập cá nhân" của [[Jacob Mincer]] trên ''[[Tạp chí Kinh tế Chính trị]]'' năm 1958. <ref>Mincer, Jacob ''Studies in Human Capital''. [https://books.google.com/books?id=Exx8_r-RpQkC&pg=PA3&lpg=PA3&dq=%22Investment+in+Human+Capital+and+Personal+Income+Distribution%22&source=bl&ots=dAcTl0R7gX&sig=kKCcB2craNSOmlMhjfL8qvvrURc&hl=pt-BR&sa=X&redir_esc=y#v=onepage&q=%22Investment%20in%20Human%20Capital%20and%20Personal%20Income%20Distribution%22&f=false 1. "Investment in Human Capital and Personal Income Distribution"]. Edward Elgar Publishing, 1993.</ref> Sau đó [[Theodore Schultz]] cũng đóng góp vào sự phát triển của vấn đề. Ứng dụng nổi tiếng nhất về ý tưởng "vốn nhân lực" trong kinh tế học là của Mincer và [[Gary Becker]] của [[Trường phái kinh tế học Chicago|"Trường phái Chicago" về kinh tế]] . Cuốn sách của Becker mang tên ''Human Capital'', xuất bản năm 1964, đã trở thành một tài liệu tham khảo tiêu chuẩn trong nhiều năm. Theo quan điểm này, vốn con người tương tự như " [[Tư bản|phương tiện sản xuất vật chất]] ", ví dụ, nhà máy và máy móc: người ta có thể đầu tư vào vốn con người (thông qua giáo dục, đào tạo, điều trị y tế) và đầu ra của một người phụ thuộc một phần vào [[tỷ lệ lợi nhuận]] của vốn con người vốn mộtcông ty sở hữu. Do đó, vốn con người là một [[Tư liệu sản xuất|phương tiện sản xuất]], trong đó đầu tư bổ sung mang lại sản lượng bổ sung. Vốn con người là có thể thay thế, nhưng không thể chuyển nhượng như đất đai, lao động, hoặc vốn cố định.
 
Một số [[Tăng trưởng kinh tế|lý thuyết tăng trưởng]] đương đại coi vốn con người là một yếu tố [[tăng trưởng kinh tế]] quan trọng. <ref>{{Chú thích tạp chí|last=Hanushek|first=Eric|last2=Woessmann|first2=Ludger|year=2008|title=The Role of Cognitive Skills in Economic Development|url=http://hanushek.stanford.edu/sites/default/files/publications/Hanushek%2BWoessmann%202008%20JEL%2046%283%29.pdf|journal=[[Journal of Economic Literature]]|volume=46|issue=3|pages=607–668|citeseerx=10.1.1.507.5325|doi=10.1257/jel.46.3.607}}</ref> Nghiên cứu sâu hơn cho thấy sự liên quan của giáo dục đối với phúc lợi kinh tế của người dân. <ref>{{Chú thích tạp chí|last=Rindermann|first=Heiner|date=March 2008|title=Relevance of education and intelligence at the national level for the economic welfare of people|journal=Intelligence|volume=36|issue=2|pages=127–142|doi=10.1016/j.intell.2007.02.002}}</ref>
Dòng 23:
# khả năng có được và hữu ích của tất cả cư dân hoặc thành viên của xã hội.
 
Smith định nghĩa vốn nhân lực như sau: <blockquote> Thứ tư, về khả năng có được và hữu ích của tất cả cư dân hoặc thành viên của xã hội. Việc mua lại những tài năng như vậy, bằng cách duy trì người tiếp thu trong quá trình học tập, học tập hoặc học nghề của anhngười tađó, luôn luôn phải trả một khoản chi phí thực sự, vốn là một khoản vốn cố định và nhậnđược rahiện thực hóa, như chính con người anh ta. Những tài năng đó, khi họ tạo ra một phần tài sản của anh ta, họ cũng vậy, họ cũng thuộc về xã hội mà anh ta thuộc về. Sự khéo léo được cải thiện của một công nhân có thể được xem xét trong cùng một ánh sáng như một cỗ máy hoặc công cụ thương mại tạo điều kiện thuận lợi và tiết kiệm lao động, và mặc dù chi phí nhất định, trả lại chi phí đó bằng lợi nhuận. <ref>[http://www.adamsmith.org/smith/won-b2-c1.htm] Smith, Adam: ''An Inquiry into the Nature And Causes of the Wealth of Nations Book 2 – Of the Nature, Accumulation, and Employment of Stock''; Published 1776.</ref> </blockquote> Do đó, Smith lập luận, sức mạnh sản xuất của lao động đều phụ thuộc vào sự phân công lao động: <blockquote> Sự cải thiện lớn nhất về năng lực sản xuất của lao động, và phần lớn hơn về kỹ năng, sự khéo léo và phán đoán mà bất kỳ nơi nào được chỉ dẫn, hoặc áp dụng, dường như là những tác động của sự phân công lao động. </blockquote> Có một mối quan hệ phức tạp giữa phân công lao động và vốn nhân lực.
 
Vào những năm 1990, khái niệm về vốn nhân lực đã được mở rộng để bao gồm các khả năng tự nhiên, thể lực và sức khỏe, điều này rất quan trọng cho sự thành công của một cá nhân trong việc tiếp thu kiến thức và kỹ năng. <ref>{{Chú thích sách|title=Encyclopedia of the City|last=Caves|first=R. W.|publisher=Routledge|year=2004|isbn=9780415252256|location=|pages=362}}</ref>