Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Hugopako đã đổi Chính phủ Trung Hoa Dân quốc thành Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc qua đổi hướng
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
'''Chính phủ Trung Hoa Dân quốc''' ({{lang-zh|Trung Hoa Dân quốc Chính phủ}}), trước năm 1949 dùng để chỉ chính quyền cộng hòa mà về danh nghĩa là chính quyền chính thức của lãnh thổ Trung Hoa, kế tục chính quyền phong kiến nhà Thanh.
{{dịch máy}}
'''Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc''', thường được gọi là '''Chính phủ Đài Loan''' chính thức thành lập năm 1912 tại [[Nam Kinh]], với [[Tôn Trung Sơn]] là Chủ tịch Chính phủ lâm thời Trung Hoa Dân Quốc theo Hiến pháp lâm thời của Trung Hoa Dân Quốc. Chính phủ của ông chuyển đến Bắc Kinh cùng năm với [[Viên Thế Khải]] làm Tổng thống, và vẫn còn dưới quyền của ông là một chính phủ Trung Quốc được phê chuẩn quốc tế cho đến năm 1928. Trong thời kỳ Dân quốc, có một loạt các chính phủ, đôi khi cạnh tranh với nhau. Chính phủ quốc gia, người đứng đầu Quốc Dân Đảng (Quốc Dân Đảng), ban đầu được thành lập như một chính phủ quân sự đối thủ dưới sự bảo trợ của Tôn Trung Sơn tại [[Quảng Châu]] vào năm 1917. Sau khi Sun qua đời năm 1925, [[Tưởng Giới Thạch]] lãnh đạo [[Bắc phạt (1926-1928)|Bắc phạt]] (1926-1928) để thống nhất đất nước và thành lập thủ đô ở Nam Kinh. Chính phủ giành được sự công nhận ngoại giao nhưng không kiểm soát toàn bộ triều đại nhà Thanh. Chính phủ độc đảng được tuyên bố dựa trên tam dân chủ nghĩa của Bắc Dương, được cung cấp cho việc chuyển đổi "giám sát", nhưng đã giành được nhiều đảng chính trị hơn, bao gồm cả Đảng Cộng sản Trung Quốc trên Mặt trận Thống nhất trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai (1937-1945). Hiến pháp giám sát năm 1931 đã được thay thế bởi Hiến pháp của Trung Hoa Dân Quốc năm 1947.
 
Chính phủ Trung Hoa Dân quốc chính thức thành lập năm 1912 tại [[Nam Kinh]], với [[Tôn Trung Sơn]] là Đại tổng thống lâm thời Trung Hoa Dân Quốc theo Hiến pháp lâm thời. Sau khi Tôn nhượng vị cho [[Viên Thế Khải]], cơ quan chính Chính phủ Trung Hoa Dân quốc chuyển đến Bắc Kinh trong cùng năm 1912, là một chính phủ Trung Quốc được quốc tế công nhận cho đến năm 1928. Thời kỳ này, chính phủ Trung Hoa Dân quốc chịu ảnh hưởng lớn của Tôn và các thủ hạ của ông, vốn xuất thân từ lực lượng [[Bắc Dương quân]], nên đương thời còn được gọi là '''Chính phủ Bắc Dương'''.
Chính phủ hiến pháp mới chuyển đến Đài Bắc, Đài Loan, vào năm 1949 vì mất quân đội trong cuộc Nội chiến Trung Quốc. Chính phủ định cư tại Đài Loan và nắm quyền kiểm soát các đảo khác bao gồm Bành Hồ, Kim Môn, Mã Tổ, Ba Bình và Đông Sa. Sự kiểm soát của chính phủ đã bị chi phối bởi Quốc dân đảng, nhưng tình hình đã thay đổi khi Trung Hoa Dân Quốc biến thành nền dân chủ đa đảng.
 
Cùng thời đó, cùng trên lãnh thổ Trung Quốc, có một loạt các chính phủ độc lập khác được hình thành ở các địa phương, ly khai với chính quyền Bắc Dương, đôi khi chống đối lẫn nhau. Trong số đó, trội lên chính phủ ly khai do [[Trung Quốc Quốc dân Đảng]] (QDĐ) lãnh đạo, ban đầu được thành lập như một chính phủ quân sự đối thủ dưới sự bảo trợ của Tôn Trung Sơn tại [[Quảng Châu]] vào năm 1917. Sau khi Tôn qua đời năm 1925, [[Tưởng Giới Thạch]] lãnh đạo [[Bắc phạt (1926-1928)|Bắc phạt]] (1926-1928) để thống nhất đất nước và thành lập thủ đô ở Nam Kinh. Chính phủ của Tưởng tuyên bố dựa trên nền tảng [[Tam dân chủ nghĩa]] và kế thừa chính phủ Bắc Dương, mở rộng [[dân chủ]], kết hợp tham chính của nhiều đảng phái chính trị hơn, bao gồm cả [[Đảng Cộng sản Trung Quốc]], lập Hiến pháp năm 1931. Trên thực tế, chính phủ của Tưởng tuy có được sự công nhận ngoại giao nhưng không kiểm soát toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc. Bên cạnh những chính phủ địa phương của các [[quân phiệt]] cát cứ, chính phủ Tưởng còn bị các đảng phái đối lập công kích là chính quyền độc tài độc đảng. Nổi lên có chính quyền Xô viết ly khai do đảng Cộng sản thành lập. Trong thời kỳ [[Chiến tranh Trung-Nhật]] lần thứ hai (1937-1945), một loạt chính phủ bù nhìn do người Nhật lập nên cũng mang danh nghĩa Chính phủ Trung Hoa Dân quốc. Để phân biệt, đương thời chính quyền của Tưởng được gọi là '''Chính phủ Quốc dân'''.
 
Sau [[Thế chiến thứ hai]], Chính phủ Quốc dân là chính phủ duy nhất của Trung Hoa theo Hiến pháp Trung Hoa Dân quốc năm 1947. Tuy nhiên, Quốc dân Đảng lại mau chóng sụp đổ trước sự trỗi dậy của Cộng sản Đảng. Mất đi quyền kiểm soát [[Trung Hoa đại lục|Đại lục]] trong cuộc [[Nội chiến Trung Quốc]], chính phủ của Tưởng chuyển đến [[Đài Bắc]] ([[Đài Loan]] vào năm 1949, từ đó chỉ còn kiểm soát Đài Loan và một số đảo khác bao gồm [[Bành Hồ]], [[Kim Môn]], [[Mã Tổ]], [[Ba Bình]] và [[Đông Sa]]. Vì vậy, kể từ sau năm 1949, chính phủ Trung Hoa Dân quốc thường được gọi là '''Chính phủ Đài Loan'''.
 
Sau khi chuyển đến Đài Loan, một thời gian dài chính phủ Trung Hoa Dân quốc vẫn bị chi phối bởi Quốc dân Đảng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tình hình đã thay đổi khi nền chính trị Trung Hoa Dân quốc đã được chuyển đổi thành nền dân chủ đa đảng.
 
== Cơ cấu tổ chức ==