Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh biên giới Việt–Trung 1979”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao |
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao |
||
Dòng 228:
===Chuẩn bị===
====Quân sự====
Theo nguồn tin từ [[Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)|Cục tình báo Trung ương Hoa Kỳ]] (CIA), thì từ giữa năm [[1978]], [[Trung Quốc]] đã hoàn chỉnh các phương án tác chiến, các đơn vị quân đội [[Trung Quốc]] đã sẵn sàng mở cuộc tiến công quân sự quy mô lớn chống [[Việt Nam]], chỉ cần thời cơ đến là phát động chiến tranh. Trong những buổi họp của Trung ương [[Đảng Cộng sản
Từ tháng 10 năm [[1978]] cho đến [[15 tháng 2]] năm [[1979]], [[Trung Quốc]] thực hiện hàng loạt các vụ tấn công thăm dò vào các vị trí phòng thủ của [[Việt Nam]] tại biên giới, với mục đích thu thập thông tin tình báo, đe dọa quân [[Việt Nam]], và đánh lạc hướng khỏi mục tiêu chính của chiến dịch sắp tới. Các cuộc tấn công nhỏ này tăng dần về quy mô và tần số khi lực lượng [[Trung Quốc]] tập trung tại biên giới ngày càng đông. Không có tài liệu gì về các cuộc tấn công thăm dò của quân [[Việt Nam]].<ref>Edward C. O'Dowd, tr. 54.</ref> Dấu hiệu đầu tiên của chiến tranh là việc [[Trung Quốc]] cắt đứt tuyến đường sắt Hữu Nghị nối liền hai nước vào ngày [[22 tháng 12]] năm [[1978]].<ref>Bùi Xuân Quang, tr. 421.</ref> Đến cuối tháng 1 năm [[1979]], khoảng 17 sư đoàn chính quy [[Trung Quốc]] (khoảng 225.000 quân) đã tập trung gần biên giới với [[Việt Nam]]. Hơn 700 [[máy bay chiến đấu]] và [[máy bay ném bom]] –
Từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 2 năm 1979, [[Quân ủy Trung ương
Để cảnh báo [[Liên Xô]] và cũng nhằm ngăn chặn bị tấn công từ hai mặt, [[Trung Quốc]] đặt toàn bộ quân đội đóng dọc biên giới Trung – Xô vào tình trạng báo động đồng thời thiết lập một sở chỉ huy quân đội mới ở [[Tân Cương]] và di tản 300
Để đối phó lại việc [[Trung Quốc]] tập trung bộ binh và vũ khí hạng nặng tại biên giới, cũng như việc các cuộc đột kích vũ trang ngày càng gia tăng, [[Việt Nam]] tiến hành chuẩn bị các vị trí phòng ngự, chuẩn bị tinh thần dân chúng sẵn sàng một khi chiến tranh xảy ra. Tuy nhiên [[Việt Nam]] tại thời điểm đó vẫn tin rằng [[Trung Quốc]] sẽ không tấn công, vì
Lực lượng [[Việt Nam]] đương đầu với cuộc tấn công của [[Trung Quốc]] chủ yếu là dân quân và bộ đội địa phương. Từ vài tháng trước khi chiến tranh nổ ra, [[Hà Nội]] đã tiến hành huấn luyện và trang bị vũ khí hạng nhẹ cho dân quân tại các tỉnh biên giới. Chỉ có một số đơn vị quân chính quy tham gia chiến trận, nhất là các đơn vị phòng thủ [[Lạng Sơn]], nhưng ngay cả tại đây, lực lượng chủ yếu vẫn là dân quân và quân địa phương. [[Hà Nội]] giữ lại 5 sư đoàn chủ lực ở tuyến sau đề phòng [[Trung Quốc]] tiến sâu về đồng bằng, và đồng thời cũng để giới hạn việc cuộc chiến leo thang.<ref>Mark A. Ryan, tr. 230.</ref>
Từ tháng 1 năm 1979, [[Trung Quốc]] bắt đầu đẩy mạnh các hoạt động trinh sát vũ trang dọc biên giới. Trong tháng 1 và tuần đầu tiên của tháng 2 năm 1979,
Ngày 1 tháng 1 năm 1979, theo chỉ thị của [[Quân ủy Trung ương Việt Nam|Thường vụ Quân ủy Trung ương Việt Nam]], các lực lượng vũ trang biên giới được lệnh chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao. Ngày [[15 tháng 2]], ngoại trừ các xã biên giới và một vài đơn vị, các lực lượng trên tuyến 1 được lệnh hạ cấp xuống trạng thái sẵn sàng chiến đấu tăng cường. Nhiều đơn vị tổ chức cho phần lớn bộ đội về trạng thái sinh hoạt bình thường, di chuyển, điều chỉnh lại đội hình bố trí…<ref>[https://infonet.vn/bien-gioi-phia-bac-1979-30-ngay-khong-the-nao-quen-1-post158487.info Biên giới phía Bắc 1979: 30 ngày không thể nào quên (1) - Infonet<!-- Bot generated title -->]</ref>
====Ngoại giao====
|