Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Wichita (CA-45)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n chính tả, replaced: xoay sở → xoay xở using AWB
cite DANFS
Dòng 61:
|}
 
'''USS ''Wichita'' (CA-45)''' là một [[tàu tuần dương hạng nặng]] của [[Hải quân Hoa Kỳ]], là chiếc duy nhất trong [[Wichita (lớp tàu tuần dương)|lớp của nó]] và tên được đặt theo thành phố [[Wichita, Kansas|Wichita]] tại tiểu bang [[Kansas]], và là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt [[USS Wichita|cái tên này]].<ref name=DANFS>{{cite web | title=Wichita I (CA-45) | url=https://www.history.navy.mil/research/histories/ship-histories/danfs/w/wichita-i.html | website=Naval History and Heritage Command | accessdate=17 February 2020}}</ref>''Wichita'' đã tham gia phục vụ trong suốt [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Chiến tranh Thế giới thứ hai]], thoạt tiên là hộ tống các đoàn tàu vận tải đi đến [[Murmansk]] ở phía Bắc [[Liên Xô]] và hỗ trợ cho cuộc đổ bộ trong [[Chiếc dịch Torch]] tại [[Mặt trận châu Âu]] vào năm [[1942]], và sau đó là tại [[Chiến tranh Thái Bình Dương|Mặt trận Thái Bình Dương]] trong những năm [[1943]]- [[1945]]. ''Wichita'' đã phục vụ trong thành phần lực lượng chiếm đóng Nhật Bản sau chiến tranh trước khi được cho ngừng hoạt động vào năm [[1947]] và bị tháo dỡ vào năm [[1959]].
 
== Thiết kế và chế tạo ==
''Wichita'' được đặt lườn vào ngày [[28 tháng 10]] năm [[1935]] tại [[Xưởng hải quân Philadelphia]]; được hạ thủy vào ngày [[16 tháng 11]] năm [[1937]]; được đỡ đầu bởi Bà William F. Weigester, con gái ngài W. A. Ayres, Chủ tịch [[Ủy ban Thương mại Liên bang]]; và được đưa ra hoạt động vào ngày [[16 tháng 2]] năm [[1939]] dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng, [[Đại tá Hải quân]] [[Thaddeus A. Thomson]].<ref name=DANFS/>
 
Thiết kế của con tàu là sự chuyển đổi từ những tàu tuần dương trước chiến tranh sang những chiếc được chế tạo trong Thế Chiến II. Nó được hình thành như một chiếc khác thuộc [[Brooklyn (lớp tàu tuần dương)|lớp tàu tuần dương hạng nhẹ ''Brooklyn'']], và trong thiết kế nó trông rất giống chúng, nhưng với kiểu tháp pháo mới 203&nbsp;mm (8 inch) cùng tám khẩu pháo hạng hai 127&nbsp;mm (5 inch)/38 caliber đa dụng, bốn khẩu trên các tháp pháo nòng đơn và bốn khẩu trên các bệ không che chắn. Hai tháp pháo của ''Wichita'' được bố trí ở cấu hình bắn thượng tầng phía trước và một tháp pháo thứ ba ở phía sau. Hai trong số tháp pháo bọc thép 127&nbsp;mm (5 inch) được đặt trên tháp pháo chính phía trước và phía sau, và hai chiếc ở hai bên cầu tàu. Bốn bệ pháo mở 127&nbsp;mm (5 inch) được bố trí phía sau giữa tàu. Sàn chứa máy bay và máy phóng của ''Wichita'' được đặt ở phía đuôi tàu, giống như mọi lớp tàu tuần dương sau này.<ref name=DANFS/>
 
== Lịch sử hoạt động ==
Sau khi hoàn tất việc trang bị, ''Wichita'' lên đường về phía Nam hướng đến vịnh Mexico, đến [[Houston, Texas]] vào ngày [[20 tháng 4]] tham gia các hoạt động lễ hội kỷ niệm [[trận San Jacinto]]. Mười ngày sau, nó nhận một dãi bạc phục vụ từ các đại biểu của thành phố [[Wichita, Kansas]] mà nó mang tên. Sau khi rời Houston vào ngày [[1 tháng 5]], ''Wichita'' tiến hành chuyến đi chạy thử máy, viếng thăm [[quàn đảo Virgin]], [[Cuba]] và [[Bahamas]] trước khi quay trở về xưởng đóng tàu để sửa chữa sau thử máy.<ref name=DANFS/>
 
=== Mở màn Chiến tranh Thế giới thứ hai ===
''Wichita'' vẫn còn trong giai đoạn chuẩn bị khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Chiến tranh Thế giới thứ hai]] nổ ra tại [[Ba Lan]] vào ngày [[1 tháng 9]] năm [[1939]]. Vào ngày [[25 tháng 9]], nó trình diện cùng Tổng tư lệnh [[Hạm đội Hoa Kỳ]] và được bố trí về Hải đội Tuần dương 7 thuộc Hạm đội Đại Tây Dương. Nó rời Philadelphia hướng đến [[Virginia Capes]], đi đến [[Hampton Roads]] hai ngày sau đó. ''Wichita'' rời Hampton Roads vào ngày [[4 tháng 10]] để thay phiên cho tàu tuần dương ''[[USS Vincennes (CA-44)|Vincennes]]'' trong nhiệm vụ [[Tuần tra Trung lập]]. Nó ở lại ngoài biển cho đến ngày [[9 tháng 10]], khi nó quay trở về Hampton Roads. Nó vào [[Xưởng hải quân Norfolk]] vào ngày [[12 tháng 10]] và trải qua đợt sửa chữa tại đây cho đến ngày [[1 tháng 12]].<ref name=DANFS/>
 
Ba ngày sau, ''Wichita'' lên đường hướng đến Cuba, đi đến [[vịnh Guantanamo]] vào ngày [[8 tháng 12]]. Sau khi đến nơi, chỉ huy của nó, Đại tá Thomson, tiếp nhận quyền chỉ huy Lực lượng Tuần tra Caribbe mới được thành lập, bao gồm các tàu tuần dương ''Wichita'' và ''Vincennes'', các tàu khu trục ''[[USS Borie (DD-215)|Borie]]'', ''[[USS Broome (DD-210)|Broome]]'', ''[[USS Lawrence (DD-250)|Lawrence]]'', ''[[USS King (DD-242)|King]]'' và ''[[USS Truxtun (DD-229)|Truxtun]]'' và các hải đội tuần tra hải quân VP-33 và VP-51. Mọi đơn vị đều được đặt căn cứ tại vịnh Guantanamo hoặc tại [[San Juan, Puerto Rico]].<ref name=DANFS/>
 
Trong những tuần lễ tiếp theo sau, ''Wichita'' và các tàu tháp tùng của Lực lượng Tuần tra Caribbean tiến hành tập trận ngoài khơi vịnh Guantanamo. Bốn ngày trước lễ [[Lễ Giáng Sinh|Giáng Sinh]], chiếc tàu tuần dương hạng nặng rời vùng biển Cuba hướng đến Puerto Rico, và đi đến San Juan hai ngày sau đó. Sau đó, nó ghé thăm St. Thomas thuộc quần đảo Virgin một thời gian ngắn vào ngày [[28 tháng 12|28]]–[[29 tháng 12]] năm [[1939]] trước khi quay trở về San Juan và ở lại đây cho đến ngày [[2 tháng 1]] năm [[1940]].<ref name=DANFS/>
 
Quay trở lại vịnh Guantanamo vào ngày [[3 tháng 1]], ''Wichita'' thực hành tại chỗ từ ngày [[8 tháng 1|8]] đến ngày [[24 tháng 1]], rồi nó rời vùng biển Cuba như là soái hạm của Phân đội Antilles vừa mới được tành lập, cũng bao gồm ''Vincennes'' và Hải đội Khu trục 10. Hai ngày sau đó, lực lượng được cho tách ra, khi ''Wichita'' cùng Hải đội Khu trục 82 viếng thăm [[Willemstad, Antilles thuộc Hà Lan|Willemstad]], [[Curaçao]], [[West Indies thuộc Hà Lan]] từ ngày [[26 tháng 1|26]] đến ngày [[30 tháng 1]] trước khi lên được gặp gỡ ''Vincennes'' và nhóm tàu khu trục của nó vào ngày [[31 tháng 1]], trên đường quay trở lại vùng biển Puerto Rico.<ref name=DANFS/>
 
''Wichita'' tiến hành các hoạt động thực tập tại khu vực Guantanamo-[[Culebra, Puerto Rico]] cho đến cuối [[tháng hai|tháng 2]], khi nó lên đường đi Hampton Roads. Nó đến Norfolk vào ngày [[4 tháng 3]] và trải qua năm ngày tại đây trước khi di chuyển về phía Bắc đến Philadelphia, nơi nó ở lại trong hai tuần. Sau khi quay trở lại Norfolk vào cuối [[tháng ba|tháng 3]], ''Wichita'' hoạt động thực tập ngoài khơi Hampton Roads cho đến hết mùa Xuân.<ref name=DANFS/>
[[Tập tin:USS Wichita May 1940.jpg|nhỏ|trái|300px|''Wichita'' sơn màu xám nhạt trước chiến tranh, vào ngày 1 tháng 5 năm 1940.]]
Tuy nhiên, vào [[tháng sáu|tháng 6]], chiếc tàu tuần dương hạng nặng được giao nhiệm vụ "biểu dương lực lượng" tại vùng biển Nam Mỹ để đối phó với sự tuyên truyền của [[Đức Quốc xã]] tại một số nước "[[Chính sách Láng giềng tốt|láng giềng tốt]]" phía Nam. Ngay từ giữa [[tháng năm|tháng 5]] năm [[1940]], khi Đức tiến hành cuộc chiến tranh chớp nhoáng (''[[blitzkrieg]]'') hủy diệt vào [[Hà Lan]] và [[Pháp]], [[Edwin C. Wilson]], Công sứ Hoa Kỳ tại [[Uruguay]], đã báo cáo từ Montevideo về sự bùng phát của việc tuyên truyền chủ nghĩa Quốc xã tại đây. Bộ Ngoại giao Mỹ và bản thân Tổng thống cũng chia sẻ mối lo ngại của Wilson về những nỗ lực nhằm bành trướng ảnh hưởng lên vùng Tây bán cầu.<ref name=DANFS/>
 
''[[USS Quincy (CA-39)|Quincy]]'' là con tàu đầu tiên được cho gởi đến [[Montevideo]], thủ đô của Uruguay, đến cảng này vào ngày [[20 tháng 6]] trong một sự đón tiếp nhiệt tình. Mười ngày sau, ''Wichita'', cùng với [[Chuẩn Đô đốc]] [[A. C. Pickens]] tư lệnh Hải đội Tuần dương 7 trên tàu, gia nhập cùng ''Quincy'' tại đây sau khi ghé qua [[Rio de Janeiro]] trên đường đi.<ref name=DANFS/>
 
Ảnh hưởng của những chiếc tàu tuần dương hạng nặng, "nhắc nhở về sức mạnh và tầm hoạt động của các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ", được tiếp tục khi ''Wichita'' và ''Quincy'' lên đường vào ngày [[3 tháng 7]]. Chúng ghé thăm [[Rio Grande, Rio Grande do Sul|Rio Grande do Sul]]; [[Santos]]; Rio de Janeiro; [[Salvador, Bahia]]; và [[Pernambuco]], [[Brasil]], trước khi quay trở lại Montevideo vào ngày [[23 tháng 8]]. Các con tàu sau đó "biểu dương lực lượng" tại [[Buenos Aires]], [[Argentina]], và một lần nữa tại Rio de Janeiro trước khi quay trở về Hampton Roads vào ngày [[22 tháng 9]].<ref name=DANFS/>
 
''Wichita'' ở lại Norfolk một tuần trước khi tiếp tục đi đến [[Thành phố New York|New York]], đến nơi vào ngày [[30 tháng 9]]. Trong ba tháng tiếp theo, chiếc tàu tuần dương phục vụ như là tàu huấn luyện cho học viên mới của Chương trình Dự bị V-7, và tiến hành các cuộc tập luyện tác xạ, chủ yếu tại Khu vực Luyện tập phía Nam ngoài khơi Virginia.<ref name=DANFS/>
 
=== 1941 ===
''Wichita'' rời Hampton Roads vào ngày [[7 tháng 1]] năm [[1941]] hướng đến vùng biển Cuba, đến Guantanamo bốn ngày sau đó. Trong hai tháng rưỡi tiếp theo, ''Wichita'' tham gia các cuộc cơ động hạm đội tại khu vực [[Vùng Caribe|Caribbe]] và các cuộc diễn tập đổ bộ tại Puerto Rico. Trong thời gian đó, nó ghé qua [[Portland Bight]], [[Jamaica]]; [[Culebra, Puerto Rico|Culebra]]; [[Guayanilla]], [[Fajardo Roads]] và [[Mayagüez, Puerto Rico]] trước khi quay về [[Xưởng hải quân New York]] vào ngày [[23 tháng 3]].<ref name=DANFS/>
 
''Wichita'' khởi hành đi [[Bermuda]] vào ngày [[6 tháng 4]] và đến nơi hai ngày sau đó. Cùng với tàu tuần dương ''[[USS Tuscaloosa (CA-37)|Tuscaloosa]]'', ''Wichita'' hoạt động tại khu vực Bắc Đại Tây Dương, đi đến phạm vi cách [[Cộng hòa Ireland|Ireland]] 1.500&nbsp;km (800 dặm), sau đó nó quay về Xưởng hải quân New York vào ngày [[17 tháng 5]] và vào ụ tàu ngày [[21 tháng 6]].<ref name=DANFS/>
 
Hoàn tất việc sửa chữa vào ngày [[2 tháng 7]], ''Wichita'' chuyển đến [[Newport, Rhode Island]], nơi nó lên đường vào ngày [[27 tháng 7]] hướng đến [[Iceland]] trong thành phần Lực lượng Đặc nhiệm 16 tham gia Chiến dịch "Indigo II", cuộc chiếm đóng hòn đảo chiến lược này. Nó đến [[Reykjavík]], thủ đô Iceland, vào ngày [[6 tháng 8]] nhưng lại quay trở về Newport vào ngày [[20 tháng 8]]. Sau đó nó chuyển đến [[vịnh Casco]], [[Maine]], từ ngày [[25 tháng 8|25]] đến ngày [[27 tháng 8]] trước khi lên đường đi [[Newfoundland (đảo)|Newfoundland]], ở lại [[vịnh Placentia]] trong khoảng một tháng. Tuy nhiên cùng lúc đó, các nhà chiến lược Hoa Kỳ, do lo sợ phản ứng của Đức đối với vai trò ngày càng gia tăng của Mỹ trong [[Trận Đại Tây Dương thứ hai|trận chiến Đại Tây Dương]], đã cho phép đưa một lực lượng đặc nhiệm đến Iceland, đặt căn cứ tại đây và tuần tra [[eo biển Đan Mạch]]. Nằm trong thành phần được điều động này, ''Wichita'' lên đường vào ngày [[23 tháng 9]] hướng đến vùng biển Iceland cùng với [[tàu sân bay]] ''[[USS Wasp (CV-7)|Wasp]]'', [[thiết giáp hạm]] ''[[USS Mississippi (BB-41)|Mississippi]]'', tàu sửa chữa ''[[USS Vulcan (AR-5)|Vulcan]]'' cùng bốn tàu khu trục, và đã đến Reykjavík vào ngày [[28 tháng 9]].<ref name=DANFS/>
 
Hai ngày trước khi ''Wichita'' đến nơi, tàu chiến của [[Hạm đội Đại Tây Dương Hoa Kỳ|Hạm đội Đại Tây Dương]] nhận được mệnh lệnh bảo vệ mọi con tàu thương mại trong vùng biển bảo vệ của Hoa Kỳ. Hải quân được phép tuần tra, bảo vệ, hộ tống, và báo cáo hoặc tiêu diệt mọi lực lượng hải quân Đức hay Ý can dự. Hành động này được đưa ra chỉ một tuần sau khi đoàn tàu vận tải đầu tiên được Hải quân Mỹ hộ tống hướng sang phía Đông, và chỉ hai tuần sau mệnh lệnh của [[Tổng thống Hoa Kỳ|Tổng thống]] [[Franklin D. Roosevelt]]: "bắn nếu thấy", cho phép các đơn vị Hải quân Mỹ tấn công mọi con tàu đe dọa tàu bè Mỹ hay tàu bè được Mỹ hộ tống.<ref name=DANFS/>
 
Trong thành phần của Đội đặc nhiệm 7.5 (tên lóng "[[White Patrol]]", tuần tra trắng), ''Wichita'' tiếp tục các hoạt động tuần tra tại vùng biển Iceland cho đến cuối năm [[1941]]; và nó đang thả neo tại [[Hvalfjörður]], Iceland, vào lúc mà [[Đế quốc Nhật Bản]] [[trận Trân Châu Cảng|tấn công Trân Châu Cảng]] vào ngày [[7 tháng 12]] năm [[1941]], thúc đẩy Hoa Kỳ chính thức tham gia [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Chiến tranh Thế giới thứ hai]].<ref name=DANFS/>
 
=== 1942 ===
[[Tập tin:USS Wichita (CA-45) underway during a winter storm off Iceland in January 1942.jpg|nhỏ|250px|trái|''Wichita'' trải qua một cơn bão tại Iceland.]]
''Wichita'' lên đường vào ngày [[5 tháng 1]] năm [[1942]] tiến hành một đợt huấn luyện ôn tập và tuần tra càn quét tại eo biển Đan Mạch trước khi quay trở về Hvalfjörður vào ngày [[10 tháng 1]]. Năm ngày sau, một cơn cuồng phong lớn với sức gió lên đến 180&nbsp;km/h (100 knot) ập đến Iceland. ''Wichita'' lẩn tránh được cơn bão cho đến khi những chiếc [[USS Albemarle (AV-5)|USS ''Albemarle'']] và [[SS West Nohno|SS ''West Nohno'']] bị gió thổi đứt dây neo. ''Wichita'' cơ động né tránh được ''Albemarle'', nhưng ''West Nohno'' bị vướng vào dây neo của chiếc tàu tuần dương hạng nặng và va chạm mạn của nó vào mũi chiếc ''Wichita''. Sau đó ''Wichita'' va chạm với một tàu đánh cá Anh trước khi bị mắc cạn vào lúc 16 giờ 41 phút ở tư thế cân bằng. Chiếc tàu chiến trải qua đêm trong gió giật và mưa tuyết và tầm nhìn rất giới hạn.<ref name=DANFS/>
 
Ngày hôm sau, ''Wichita'' kiểm soát được tình trạng của mình. Việc khảo sát cho thấy nó bị hư hại nhẹ do các cú va chạm, chịu đựng một số điểm tràn nước, và những hư hỏng có thể sửa chữa được cho lườn và đuôi tàu do bị mắc cạn. Sau khi được sửa chữa tạm thời, ''Wichita'' đi đến Xưởng hải quân New York vào ngày [[9 tháng 2]]. Sau khi được sửa chữa và cải biến trong ụ tàu, ''Wichita'' khởi hành vào ngày [[26 tháng 2]], ghé tạt qua Newport, Rhode Island, trước khi tiếp tục đi đến [[Boston]] vào ngày hôm sau. Chuyển sang vịnh Casco, Maine, chiếc tàu tuần dương thực hành tại vùng biển này cho đến ngày [[11 tháng 3]], khi nó lên đường đi Boston để tiếp đạn, rồi quay trở lại vịnh Casco không lâu sau đó.<ref name=DANFS/>
 
Sau đó ''Wichita'' được điều về một lực lượng đặc nhiệm được hình thành chung quanh ''Wasp'' và thiết giáp hạm ''[[USS Washington (BB-56)|Washington]]'', còn bao gồm ''Tuscaloosa'' và tám tàu khu trục dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc [[John W. Wilcox, Jr.]], vốn đặt cờ hiệu của mình trên chiếc ''Washington''. ''Wichita'' khởi hành vào ngày [[26 tháng 3]], và vào ngày hôm sau, khi đi ngang qua vùng biển động, Đô đốc Wilcox bị cuốn khỏi soái hạm của mình. Sau các nỗ lực tìm kiếm rộng rãi, xác của vị Đô đốc được tìm thấy nhưng không thể vớt lên được. Nhiệm vụ chỉ huy lực lượng được chuyển cho Chuẩn Đô đốc [[Robert C. Giffen]], đặt cờ hiệu trên chiếc ''Wichita''.<ref name=DANFS/>
 
Vào ngày [[3 tháng 4]], lực lượng đặc nhiệm của ''Wichita'' gặp gỡ [[HMS Edinburgh (C16)|HMS ''Edinburgh'']], [[HMS Gambia|HMS ''Gambia'']] và [[HMS Frobisher (D81)|HMS ''Frobisher'']]. Sau đó ''Edinburgh'' đã dẫn đường cho tàu tàu Mỹ đi vào [[Scapa Flow]], căn cứ hoạt động mới, và đến nơi vào ngày [[4 tháng 4]]. Trong những tuần lễ tiếp theo, ''Wichita'' thực hành ngoài khơi Scapa Flow cùng các đơn vị khác của Hạm đội Anh.<ref name=DANFS/>
 
Hoàn tất việc huấn luyện và truyền thụ cùng [[Hải quân Hoàng gia Anh]], chiếc tàu tuần dương ra khơi vào ngày [[28 tháng 4]] hộ tống cho các [[đoàn tàu vận tải]] [[PQ-15]] và [[QP-11]] đi đến và quay về từ cảng quan trọng [[Murmansk]] của [[Chương trình Cho thuê-Cho mượn]] hỗ trợ cho [[Liên Xô]] trong chiến tranh. Các hoạt động của Đức xuất hiện không lâu sau đó dưới dạng báo cáo của máy bay và tàu ngầm [[U-boat]] theo dõi rình mò. Hơn nữa, lại có vấn đề bên phía Đồng Minh: vào ngày [[1 tháng 5]] năm [[1942]], thiết giáp hạm [[HMS King George V (41)|HMS ''King George V'']] húc phải và làm chìm tàu khu trục [[HMS Punjabi (F21)|HMS ''Punjabi'']]. ''King George V'' phải quay về cảng để sửa chữa, và vị trí của nó được thay thế bởi [[HMS Duke of York (17)|HMS ''Duke of York'']]. Sau khi hoàn tất việc hộ tống QP-11, lực lượng rút lui về hướng [[Seyðisfjörður]], Iceland. Chiếc tàu chiến Mỹ được cho tách ra để quay về Hvalfjörður, và đến nơi và ngày [[6 tháng 5]].<ref name=DANFS/>
[[Tập tin:Wichita and Wasp 1942.jpg|nhỏ|250px|phải|''Wichita'' và ''Wasp'' trong cảng vào năm 1942.]]
Sau gần một tuần trong cảng, ''Wichita'' lên đường vào ngày [[12 tháng 5]] thay phiên cho ''Tuscaloosa'' tuần tra trong [[eo biển Đan Mạch]], giữa Iceland và [[Greenland]]. Một tuần sau, nó quay về Hvalfjörður rồi lại ra khơi trong thành phần lực lượng hộ tống hỗn hợp Anh-Mỹ bảo vệ cho đoàn tàu vận tải [[PQ-16]] trong chặng đi đến Murmansk và đoàn [[QP-12]] quay trở về, và về đến Scapa Flow vào ngày [[29 tháng 5]]. Trong khi ở trong cảng, vào ngày [[7 tháng 6]], [[George VI của Anh|Vua George VI]] đã thị sát ''Wichita'' cùng các tàu chiến khác của lực lượng đặc nhiệm, kể cả ''Washington''.<ref name=DANFS/>
 
Lên đường đi Hvalfjörður vào ngày [[12 tháng 6]] và đến nơi vào ngày [[14 tháng 6]], ''Wichita'' thay phiên cho [[HMS Cumberland (57)|HMS ''Cumberland'']] trong hoạt động "White Patrol" tại eo biển Đan Mạch không lâu sau đó. Đang khi tuần tra vào ngày [[17 tháng 6]], ''Wichita'' phát hiện một chiếc [[Focke-Wulf Fw 200]] "Condor", kiểu máy bay trinh sát hàng hải và ném bom bốn động cơ, và đã nổ súng vào nó. Ba ngày sau, chiếc tàu tuần dương hạng nặng lại bắn vào một chiếc "Condor" thứ hai mà vẫn không có kết quả.<ref name=DANFS/>
 
Hoạt động của đối phương gần các tuyến đường vận tải đến Murmansk và tại khu vực eo biển Đan Mạch không hề lắng dịu trong những ngày tiếp theo. Vào ngày [[21 tháng 6]], ''Wichita'' nhìn thấy một kính tiềm vọng của tàu ngầm; nó đã thực hiện lẩn tránh và không có hoạt động tấn công nào xảy ra sau đó, và chiếc tàu tuần dương tiếp tục cuộc tuần tra. Ngày kế tiếp, nó phát hiện một chiếc "Condor" thứ ba nhưng không nổ súng. Sau đó ''Wichita'' đi đến Hvalfjörður rồi từ đây đi đến Seidisfjordur vào cuối [[tháng sáu|tháng 6]]. Rời cảng này vào ngày [[30 tháng 6]] để hộ tống [[đoàn tàu vận tải PQ-17]], chiếc tàu chiến nằm trong thành phần "Lực lượng Tuần dương Bảo vệ", bao gồm ''Wichita'' cùng ba tàu tuần dương hạng nặng khác và ba tàu khu trục. Các lực lượng hỗ trợ khác bao gồm hai thiết giáp hạm, một tàu sân bay, một tàu tuần dương hạng nặng và một tàu tuần dương hạng nhẹ cùng chín tàu khu trục.<ref name=DANFS/>
 
Bản thân đoàn tàu vận tải là một lực lượng lớn, 36 tàu buôn chất đầy đủ loại hàng hóa chiến tranh khác nhau được gửi cho Liên Xô theo [[Chương trình Cho thuê-Cho mượn]], và một "[[tàu CAM]]", tàu buôn được trang bị một [[máy phóng máy bay|máy phóng]] cùng một máy bay [[Hawker Hurricane]] để phòng thủ tại chỗ. Không may cho đoàn tàu vận tải, một thử thách đang chờ đợi phía trước các con tàu Đồng Minh. Đến ngày [[1 tháng 7]], rõ ràng là phía Đức đã phát hiện hoạt động này do có sự tăng cường hoạt động của tàu ngầm U-boat về phía Đông. Một bức điện thu được từ phía Đức cho thấy đoàn tàu vận tải đã bị phát hiện. Thủy thủ trên ''Wichita'' ghi nhận thời tiết trở nên rất xấu: tầm nhìn rất kém; trần mây không bao giờ cao hơn {{convert|200|ft|m|abbr=on}} và đôi khi che khuất hoàn toàn.<ref name=DANFS/>
 
Lúc 23 giờ 40 phút ngày [[2 tháng 7]], máy bay trinh sát "Condor" điện báo cáo vị trí của đoàn tàu vận tải khi họ đang đi qua vùng biển sóng gió hướng sang [[Nga]]. Ngày hôm sau, một bức điện thu được cho thấy Đức đang tập trung một lực lượng tàu nổi mạnh được xây dựng chung quanh thiết giáp hạm ''[[Tirpitz (thiết giáp hạm Đức)|Tirpitz]]'' để đánh chặn đoàn tàu vận tải. Đầu buổi chiều, việc trinh sát hình ảnh cảng [[Trondheim]] thuộc [[Na Uy]] xác nhận rằng ''Tirpitz'', tàu tuần dương ''[[Admiral Hipper (tàu tuần dương Đức)|Admiral Hipper]]'' và bốn tàu khu trục đã ra khơi.<ref name=DANFS/>
 
Tàu ngầm U-boat và máy bay "Condor" liên tục dõi theo những con tàu của PQ-17. Vào ngày [[4 tháng 7]], ''Wichita'' phóng lên hai chiếc [[thủy phi cơ]] [[Curtiss SOC Seagull|SOC Seagull]] trang bị [[bom chống tàu ngầm|mìn sâu]] để thăm dò vùng rìa phía ngoài của đoàn tàu vận tải và tấn công các tàu U-boat dõi theo. Những chiếc máy bay quay về lúc 16 giờ 45 phút, không tìm thấy tàu ngầm đối phương nhưng đã đụng độ với những máy bay do thám đối phương. Nỗi lo ngại về việc bị tấn công cuối cùng đã trở nên hiện thực vào cuối ngày hôm đó, khi 25 máy bay [[Heinkel He 111]] trang bị [[ngư lôi]] ập đến từ mạn phải của đoàn tàu vận tải. Ba tàu hàng bị đánh trúng; chúng bị bỏ lại sau đó và bị chìm, trong đó một chiếc đã trúng phải ngư lôi từ đêm hôm trước. Tuy nhiên, tình hình vẫn không sáng sủa hơn.<ref name=DANFS/>
 
Sự hiện diện của những hạm tàu hạng nặng Đức ''Tirpitz'' và ''Admiral Hipper'' ngoài biển, cùng các tàu theo hộ tống, đã buộc đoàn tàu vận tải phải đổi hướng. Vào lúc 19 giờ 23 phút, đoàn tàu vận tải nhận được bức điện tai họa: "Do mối đe dọa từ các hạm tàu nổi đối phương, [[PQ-17]] sẽ được phân tán và đi đến các cảng Nga." Mệnh lệnh này đã kết liễu số phận của đa số các tàu buôn. Đến 19 giờ 36 phút, Bộ Hải quân Anh đánh điện: "Phân tán đoàn tàu vận tải."<ref name=DANFS/>
 
Cuộc tháo chạy hỗn loạn đến Murmansk được thực hiện mà không có sự trợ giúp của lực lượng bảo vệ, vì ngày sau mệnh lệnh "phân tán" là một chỉ thị khác được gửi đến lực lượng tuần dương lúc 19 giờ 44 phút: "Rút lui về phía Tây với tốc độ cao". Tuân theo mệnh lệnh, ''Wichita'' và các tàu chiến khác đổi hướng, và đến 20 giờ 25 phút ngày [[4 tháng 7]], gia tăng tốc độ lên {{convert|25|kn|km/h|abbr=on}}. Ngày hôm sau, đang khi về phía Nam [[Spitsbergen]], các con tàu bị một cặp thủy phi cơ FW-200 phát hiện và theo dõi. Cả ''Wichita'' lễn ''Tuscaloosa'' đã khai hỏa với các khẩu pháo phòng không, nhưng những chiếc "Condors" đã lẫn đi.<ref name=DANFS/>
 
''Wichita'' gia nhập cùng phần còn lại của Hạm đội vào ngày [[6 tháng 7]] rồi tiếp tục hướng đến Hvalfjörður, đến nơi hai ngày sau đó. Trong vòng một tuần, chiếc tàu tuần dương hạng nặng lại đảm trách vai trò soái hạm, lần này là cho Chuẩn Đô đốc Giffen Tư lệnh Lực lượng Đặc nhiệm 99. Lên đường đi Scapa Flow vào ngày [[19 tháng 7]], nó đến nơi vào ngày [[21 tháng 7]], để rồi lại khởi hành ngay ngày hôm sau đi đến xưởng tàu Admiralty tại [[Rosyth]], [[Scotland]]. Đến nơi vào ngày [[23 tháng 7]], ''Wichita'' vào ụ tàu để sửa chữa vào ngày [[24 tháng 7]] và ở lại đó cho đến ngày [[9 tháng 8]].<ref name=DANFS/>
 
Tuy nhiên, việc sửa chữa sự rung động của một chân vịt tỏ ra không hiệu quả, khi Tùy viên Hải quân tại London đánh điện vào ngày [[12 tháng 8]] cho biết hiệu quả tác chiến của con tàu bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi đi với tốc độ vượt quá {{convert|20|kn|km/h|abbr=on}}. Vì vậy, hai ngày sau đó, ''Wichita'' nhận được lệnh lên đường, đi ngang qua Hvalfjörður để quay về Hoa Kỳ. Khi nó quay về nhà, chiếc tàu tuần dương được đánh giá "đã hoạt động một cách thông minh và hiệu quả" bởi Đô đốc [[John Tovey, Nam tước thứ nhất Tovey|John Tovey]], Tổng tư lệnh [[Hạm đội Nhà Anh Quốc|Hạm đội Nhà]], vốn đã viếng thăm con tàu trước khi khởi hành và phát biểu trước thủy thủ đoàn.<ref name=DANFS/>
 
Sau một chặng dừng ngắn tại Hvalfjörður, ''Wichita'' đi đến New York vào ngày [[22 tháng 8]] và đi vào ụ tàu tại Xưởng hải quân New York cùng ngày hôm đó. Rời ụ tàu ngày [[5 tháng 9]], chiếc tàu tuần dương hạng nặng trải qua đợt chạy thử máy trong vòng một tuần trước khi di chuyển đến Hampton Roads. Nó tiến hành đợt thực hành tác xạ tại [[vịnh Chesapeake]]; ghé thăm [[Baltimore]] từ ngày 24 đến ngày [[28 tháng 9]]; rồi đi đến khu vực thực hành Virginia Capes tiếp nối các cuộc thực tập và huấn luyện.<ref name=DANFS/>
 
Lên đường vào ngày [[5 tháng 10]] đi vịnh Casco, nó đến nơi vào ngày [[6 tháng 10]], chất đạn dược lên tàu tại Boston rồi quay trở lại vịnh Casco để thực hành, vốn kéo dài cho đến cuối [[tháng mười|tháng 10]], khi chiếc tàu tuần dương được điều về Đội đặc nhiệm 34.1, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn đô đốc [[H. Kent Hewitt]] đặt cờ hiệu của mình trên chiếc ''[[USS Augusta (CA-31)|Augusta]]'', vốn còn bao gồm [[thiết giáp hạm]] ''[[USS Massachusetts (BB-59)|Massachusetts]]'', tàu tuần dương ''Tuscaloosa'', Hải đội Tuần dương 8 cùng các hải đội khu trục 8 và 11. Lên đường vào ngày [[24 tháng 10]], ''Wichita'' lên đường đi đến vùng biển [[Bắc Phi]], bảo vệ cho con đường đi của đoàn tàu vận tải được tập trung để tiến hành [[Chiến dịch Torch]].<ref name=DANFS/>
 
Vào ngày [[8 tháng 11]] năm [[1942]], ''Wichita'' bước vào hoạt động trực chiến lúc 05 giờ 40 phút với nhiệm vụ sẵn sàng vô hiệu hóa các khẩu đội pháo phòng thủ duyên hải Pháp tại [[Point El Hank]] và Table d'Aukasha cũng như các tàu chiến Pháp trong cảng [[Casablanca]]. Do không biết rõ thái độ và phản ứng của phía Pháp đối với việc đổ bộ, ''Wichita'' và các tàu chiến khác được lệnh không nổ súng cho đến khi "bất khả kháng và gặp sự đối địch".<ref name=DANFS/>
 
Tuy nhiên, người Pháp quyết định kháng cự, khiến đưa đến cuộc [[Hải chiến Casablanca]]. Được lệnh tấn công lúc 06 giờ 23 phút, ''Wichita'' tiến về phía bờ biển Bắc Phi, trong khi các thủy phi cơ trinh sát Seagull của nó được phóng lên để định vị điểm pháo rơi. [[Máy bay tiêm kích]] Pháp, có thể là kiểu [[Dewoitine D.520]] hoặc [[Curtiss P-36 Hawk|P-36 Hawk]] do Mỹ chế tạo, đã tấn công những chiếc Seagull, một trong số chúng bị buộc phải hạ cánh khẩn cấp. Đội bay của nó được một trong các tàu hộ tống cho chiếc tàu tuần dương hạng nặng vớt lên.<ref name=DANFS/>
[[Tập tin:USS Wichita (CA-45) under fire off Casablanca on 8 November 1942.jpg|nhỏ|250px|''Wichita'' đang đấu pháo với ''Jean Bart'']]
Đến 07 giờ 04 phút, các khẩu pháo của thiết giáp hạm Pháp ''[[Jean Bart (thiết giáp hạm Pháp) (1940)|Jean Bart]]'' lên tiếng từ cảng Casablanca, cũng như những khẩu đội bố trí tại El Hank. Cho dù đang thả neo trong cảng và trong tình trạng chưa hoàn tất, ''Jean Bart'' cũng tung ra một hỏa lực mạnh mẽ từ dàn pháo chính. ''Massachusetts'' bắn trả lúc 07 giờ 05 phút, có ''Tuscaloosa'' tiếp nối không sau đó.<ref name=DANFS/>
 
Các khẩu pháo {{convert|8|inch|mm|abbr=on}} của ''Wichita'' khai hoả lúc 07 giờ 06 phút, nhắm về phía El Hank. Đến 07 giờ 23 phút, khi các máy bay trinh sát thông báo rằng các khẩu pháo Pháp dường như đã im tiếng, chiếc tàu tuần dương hạng nặng chuyển dàn hỏa lực 8 inch của mình về hướng các [[tàu ngầm]] Pháp trong cảng Casablanca. Ngừng bắn lúc 07 giờ 40 phút, ''Wichita'' bắt đầu bắn phá các khẩu đội pháo Pháp tại [[Table d'Aukasha]] không lâu trước 08 giờ 00.<ref name=DANFS/>
 
Sau khi tiếp tục nả pháo vào các tàu bè Pháp trong cảng Casablanca, ''Wichita'' được lệnh ngừng bắn lúc 08 giờ 35 phút. Tuy nhiên, đến 09 giờ 19, nó lại nổ súng — lần này nhắm vào các tàu khu trục Pháp trong cảng và vào tàu tuần dương Pháp ''[[Primauguet (tàu tuần dương Pháp) (1923)|Primauguet]]''. Sau đó, lúc 11 giờ 28 phút, ''Wichita'' vào trong tầm bắn của một khẩu đội Pháp tại El Hank, các pháo thủ phe Vichy đã nhắm vào chiếc tàu tuần dương Mỹ. Một quả đạn pháo {{convert|194|mm|in|abbr=on}} đã bắn trúng mạn trái con tàu, xuyên qua sàn tàu thứ hai gần cột ăn-ten chính, và phát nổ trong một khoang nghỉ của thủy thủ đoàn. Mảnh đạn đã làm bị thương 14 người, nhưng không ai bị thương nặng, và đám cháy xảy ra được nhanh chóng dập tắt bởi các đội kiểm soát hư hỏng của ''Wichita''.<ref name=DANFS/>
 
Các quả [[ngư lôi]] từ một tàu ngầm phe [[Chính phủ Vichy|Pháp Vichy]] đã buộc ''Wichita'' phải cơ động để né tránh lúc 11 giờ 39 phút. Hai quả đã băng qua trước mũi tàu ở khoảng cách khoảng một chiều dài tàu, và một quả khác băng qua sâu dưới mũi tàu hay hơi chệch về phía trước. Sau khi ngừng bắn lúc 11 giờ 42 phút, ''Wichita'' nhận được mệnh lệnh một giờ sau đó tấn công các tàu Pháp đang tìm cách thoát ra theo lối ra vào cảng Casablanca. Được sự trợ giúp bởi tầm nhìn được cải thiện và việc trinh sát từ trên không, nó lại nả pháo vào ''Primauguet'', làm bốc cháy một phần lớn con tàu đối phương. Lúc 15 giờ 05 phút, ''Wichita'' ngừng bắn; các khẩu pháo của nó im tiếng cho đến hết ngày hôm đó. Vào lúc chiều tối, nó di chuyển ra phía biển nhằm tránh các cuộc tấn công đêm của tàu ngầm; và trong những ngày tiếp theo sau, nó tuần tra ngoài khơi giữa Casablanca và Fedhala. Khi vai trò trong "Chiến dịch Torch" hoàn tất, nó được lệnh quay trở về Hoa Kỳ, và ''Wichita'' lên đường đi Hampton Roads vào ngày [[12 tháng 11]]. Được lệnh chuyển hướng sang New York đang trên đường đi, nó đến nơi vào ngày [[19 tháng 11]] để sửa chữa.<ref name=DANFS/>
 
=== 1943 ===
Không lâu sau đó, ''Wichita'' lên đường đi sang [[Thái Bình Dương]]. Ngày [[29 tháng 1]] năm [[1943]], chiếc tàu tuần dương hạng nặng có hoạt động tác chiến đầu tiên tại chiến trường mới trong một cuộc tấn công đêm bằng ngư lôi của máy bay Nhật ngoài khơi [[đảo Rennell]]. Những máy bay không rõ nhận diện xuất hiện trên màn hình [[radar]] của ''Wichita'' suốt buổi xế chiều, lượn vòng ở khoảng cách {{convert|40|–|50|mi|km|lk=on}}, đôi khi đến gần còn {{convert|20|mi|km}} trước khi nới rộng khoảng cách. Khi trời tối, ''Wichita'', {{USS|Louisville|CA-28|3}} và {{USS|Chicago|CA-29|3}} cùng các tàu khu trục hộ tống bắt đầu chạy zig-zag để né tránh tàu ngầm đối phương. Đến 20 giờ 42 phút, các máy bay Nhật đến gần để bắn phá rồi rút lui; và các đợt tấn công lẻ tẻ tiếp nối sau đó.<ref name=DANFS/>
 
Bắt được tín hiệu máy bay đối phương trên màn hình radar lúc 20 giờ 43 phút, ''Wichita'' khai hỏa nhắm vào chúng một phút sau đó. Các sự kiện tiếp theo diễn biến nhanh chóng; những [[máy bay ném bom]] hai động cơ [[Mitsubishi G4M]] "Betty" mang ngư lôi vây quanh ''Chicago'' và chiếu sáng chiếc tàu tuần dương bằng pháo sáng, ''Chicago'' trúng hai quả ngư lôi chỉ trong vòng một phút. ''Wichita'' và ''Chicago'' dựng lên một hàng rào hỏa lực phòng không dày đặc, bắn rơi hai chiếc "Betty". ''Wichita'' sau đó bắn cháy thêm một chiếc "Betty" khác khi nó băng đến từ phía đuôi bên mạn phải. Một quả ngư lôi phóng từ chiếc máy bay chạy song song với con tàu bên mạn phải; còn quả kia đâm thẳng vào chiếc tàu tuần dương, nhưng may mắn cho ''Wichita'' là nó bị tịt ngòi. ''Chicago'' sau đó được ''Louisville'' kéo đi, và lực lượng tìm cách rút lui khỏi khu vực chiến sự. Tuy nhiên, ''Chicago'' lại bị máy bay đối phương bắt kịp vào ngày hôm sau, trúng thêm bốn quả ngư lôi và đắm nhanh chóng.<ref name=DANFS/>
 
''Wichita'' sau đó tiến hành huấn luyện tại [[Efate]] thuộc quần đảo [[New Hebrides]], trước khi khởi hành đi [[Oahu]] vào ngày [[7 tháng 4]], đi đến Trân Châu Cảng một tuần sau đó. Chiếc tàu tuần dương chỉ ở lại [[quần đảo Hawaii]] một thời gian ngắn, khi nó lại lên đường đi [[Adak, Alaska]] vào ngày [[18 tháng 4]] trong vai trò [[soái hạm]] cho Đội đặc nhiệm 52.10. Đi đến khu vực [[quần đảo Aleut]] sáu ngày sau đó, nó chuyển sang đảm nhiệm vai trò soái hạm cho Đội đặc nhiệm 16.14, bao gồm ''Wichita'', ''Louisville'' và bốn tàu khu trục. Lực lượng tiến hành càn quét khu vực phía Tây và Tây Bắc đảo [[Attu]] trước khi quay trở lại Adak vào ngày [[26 tháng 4]].<ref name=DANFS/>
 
''Wichita'' tiếp tục hoạt động tại khu vực quần đảo Aleut trong vai trò soái hạm của Đội đặc nhiệm 16.7, và hoạt động cùng các [[thiết giáp hạm]] {{USS|New Mexico|BB-40|3}} và {{USS|Nevada|BB-36|3}} cùng thành phần hộ tống cho chúng từ ngày [[29 tháng 5]] đến ngày [[18 tháng 6]]. Đến nữa cuối [[tháng 6]], nó hoạt động về phía Bắc của chuỗi quần đảo Aleut cùng các thiết giáp hạm; và trong vai trò soái hạm của Đội đặc nhiệm 16.21, nó đã bắn phá [[Kiska]] vào ngày [[22 tháng 7]] trước khi đi đến phía Tây Nam của hòn đảo này, rồi quay trở về Adak vào cuối tháng đó.<ref name=DANFS/>
 
''Wichita'' ở lại khu vực quần đảo Aleut cho đến giữa [[tháng 8]], khi nó khởi hành đi xuống phía Nam, đi vào [[Xưởng hải quân Puget Sound]] ở [[Bremerton, Washington]] vào ngày [[4 tháng 9]] để đại tu. Công việc sửa chữa và nâng cấp kéo dài cho đến ngày [[3 tháng 12]], [[1943]]. Nó lên đường đi xuống phía Nam vào ngày hôm sau, đi đến [[San Francisco, California]] vào ngày [[6 tháng 12]], nhưng lập tức tiếp tục hành trình đi sang quần đảo Hawaii.<ref name=DANFS/>
 
=== 1944 ===
[[Tập tin: USS Wichita (CA-45) underway in the Central Pacific on 2 May 1944.jpg|thumb|250px|''Wichita'' trên đường đi tại Thái Bình Dương, 1944.]]
''Wichita'' thực hành và huấn luyện tại khu vực quần đảo Hawaii cho đến khi nó khởi hành vào ngày [[16 tháng 1]], [[1944]] cho chiến dịch tấn công lên [[quần đảo Marshall]]. Nó được điều về Đội đặc nhiệm 58.3 vốn còn bao gồm một tàu sân bay, hai tàu sân bay hạng nhẹ, hai thiết giáp hạm và chín tàu khu trục, được đặt dưới quyền chỉ huy của Chuẩn đô đốc [[Frederick C. Sherman]], vốn đặt cờ hiệu của mình trên tàu sân bay {{USS|Bunker Hill|CV-17|3}}. Trong khi chiếc tàu tuần dương hạng nặng hộ tống cho đội đặc nhiệm, ''Bunker Hill'' và hai tàu sân bay hạng nhẹ đã tung ra các cuộc không kích xuống các vị trí đối phương tại [[Kwajalein]] vào ngày [[29 tháng 1]], rồi xuống [[Eniwetok]] trong các ngày [[30 tháng 1|30]] và [[31 tháng 1]] trong khi lực lượng [[Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ|Thủy quân Lục chiến]] đổ bộ lên Kwajalein và [[Majuro]].<ref name=DANFS/>
 
''Wichita'' đi đến đảo san hô Majuro vào ngày [[4 tháng 2]], được điều động sang Đội đặc nhiệm TG 58.2 rồi lên đường đi [[Truk]] vào ngày [[12 tháng 2]]. Trong khuôn khổ [[Chiến dịch Hailstone]], tàu sân bay thuộc đội đặc nhiệm đã tiến hành không kích xuống căn cứ chủ lực này của [[Hải quân Đế quốc Nhật Bản|Hải quân Nhật Bản]] vào ngày [[16 tháng 2]], gây thiệt hại nặng nề cho máy bay, tàu bè và cơ sở căn cứ trên bờ của đối phương. Không quân đối phương phản công bằng cuộc tấn công ban đêm nhắm vào hạm đội Hoa Kỳ, và phóng ngư lôi trúng tàu sân bay {{USS|Intrepid|CV-11|3}} không lâu sau nữa đêm. ''Wichita'' vì vậy được điều sang Đơn vị Đặc nhiệm 58.2.4 mới hình thành để hộ tống chiếc tàu sân bay bị hư hại rút lui về khu vực an toàn. Đơn vị đặc nhiệm về đến Majuro vào ngày [[20 tháng 2]].<ref name=DANFS/>
 
''Wichita'' lên đường đi Hawaii một tuần sau đó, đi đến Trân Châu Cảng vào ngày [[4 tháng 3]]. Nó đảm nhiệm vai trò soái hạm cho Đội tuần dương 6 vào ngày [[9 tháng 3]], rồi lên đường đi Majuro vào ngày [[15 tháng 3]], đến nơi năm ngày sau đó. Nó hỗ trợ cho các tàu sân bay trong chiến dịch không kích lên các đảo [[Yap]], [[Woleali]] và quần đảo [[Palau]]. Vào ngày [[30 tháng 3]], chiếc tàu tuần dương cho phóng lên hai trong số ba thủy phi cơ của nó, cứu vớt được đội bay ba người một [[máy bay ném bom-ngư lôi]] [[TBF Avenger]] của tàu sân bay ''Lexington'' bị rơi xuống biển. Nó tiếp tục hộ tống cho các tàu sân bay nhanh khi chúng tiếp tục không kích xuống Palaus và Woleali trước khi quay trở về Majuro.<ref name=DANFS/>
 
Vào ngày [[13 tháng 4]], ''Wichita'' lên đường hướng đến [[New Guinea]], nơi nó hỗ trợ cho các cuộc tấn công lên [[Jayapura|Hollandia]] (nay là Jayapura) và [[Wakde]]. Khoảng hơn một tuần sau đó, tàu sân bay thuộc đội đặc nhiệm tiếp tục ở lại phía Bắc Hollandia, tiến hành không kích các vị trí quân Nhật, vô hiệu hóa chúng cho đến xế trưa ngày [[22 tháng 4]], sau đó nó tiếp tục tuần tra dọc bờ biển New Guinea. Đội đặc nhiệm 58.2 lại quay trở lại khu vực phụ cận Truk và tung ra các đợt không kích khác xuống căn cứ Nhật Bản này vào ngày [[29 tháng 4]]; máy bay ném bom-ngư lôi Nhật tìm cách tấn công đội hình nhưng không trúng đích. Do được bố trí ở giữa đội hình hạm đội, con tàu ít có dịp nổ súng; nhưng nó cùng các tàu tuần dương khác và những tàu khu trục hộ tống được cho tách khỏi các tàu sân bay để bắn phá các mục tiêu đối phương trên đảo [[Satawan]] thuộc nhóm [[quần đảo Nomoi]], [[quần đảo Caroline|Caroline]].<ref name=DANFS/>
 
Quay trở về Majuro vào ngày [[4 tháng 5]], ''Wichita'' ở lại đây và hoạt động huấn luyện trong một tháng trước khi chuyển đến Kwajalein, địa điểm tập trung lực lượng cho chiến dịch đổ bộ tiếp theo lên [[quần đảo Mariana]] còn do phía quân Nhật chiếm giữ. Trong thành phần Đơn vị Đặc nhiệm 53.10.8, nó hoạt động về phía Đông Nam [[Saipan]], tham gia bắn phá khu vực phía Nam đảo này vào ngày [[14 tháng 6]], phá hủy các công sự trên bờ và vị trí phòng thủ dọc bờ biển phía Nam sang đến ngày hôm sau, và đến chiều tối đã hộ tống các tàu vận tải rỗng rút lui. Vào ngày [[16 tháng 6]], nó bắn phá các vị trí pháo đối phương tại bờ Tây đảo [[Guam]] trước khi quay trở lại Saipan, và sang ngày [[17 tháng 6]], nó gặp gỡ Đội đặc nhiệm 58.7 tại vị trí về phía Tây quần đảo Mariana. Trong ba ngày tiếp theo chiếc tàu tuần dương đã tuần tra trong khu vực, chờ đợi một lực lượng hạm đội Nhật Bản hùng hậu đang tiếp cận từ phía chính quốc Nhật Bản để phản công vào lực lượng đổ bộ.<ref name=DANFS/>
 
Trong khuôn khổ [[Trận chiến biển Philippine]], còn được biết đến dưới tên lóng “cuộc săn vịt trời Mariana vĩ đại”, từ buổi sáng đến xế trưa ngày [[19 tháng 6]], ''Wichita'' góp phần vào hàng rào hỏa lực phòng không, vốn đã rất hiệu quả trong việc ngăn chặn máy bay đối phương không kích. Trong trận này, pháo thủ trên chiếc tàu tuần dương đã trợ giúp vào việc bắn rơi hai máy bay ném bom-ngư lôi [[Nakajima B5N]] "Kate"; và đến cuối trận chiến, thủy phi cơ của nó đã cứu vớt một phi công tiêm kích bị phía Nhật Bản bắn rơi.<ref name=DANFS/>
 
Được cho tách ra, ''Wichita'' quay trở lại khu vực Saipan vào ngày [[25 tháng 6]] để tiếp tục hỗ trợ cho những hoạt động tác chiến tại đây. Nó tiếp tục ở lại để bảo vệ cho các tàu chở quân và [[tàu sân bay hộ tống]] cho đến đầu [[tháng 7]]. Sau khi Đơn vị Đặc nhiệm 52.17.8 của nó được đổi tên thành Đơn vị Đặc nhiệm 53.18.1, nó tham gia bắn phá các căn cứ và công sự đối phương trên bờ biển phía Tay đảo từ ngày [[8 tháng 7|8]] đến ngày [[12 tháng 7]], và sau khi quay trở lại Saipan từ ngày [[13 tháng 7|13]] đến ngày [[17 tháng 7]], nó lại đảm nhiệm vai trò bắn phá hỗ trợ tại Guam từ ngày [[18 tháng 7]] cho đến đầu [[tháng 8]].<ref name=DANFS/>
 
Rời Guam vào ngày [[10 tháng 8]], ''Wichita'' đi đến Eniwetok ba ngày sau đó, rồi tiếp tục lên đường vào ngày [[29 tháng 8]], gặp gỡ Đội đặc nhiệm 38.1 không lâu sau đó. Nó hộ tống cho các tàu sân bay nhanh trong khi máy bay của chúng không kích các mục tiêu Nhật Bản trên các quần đảo Palau, Caroline, [[Philippines]] và [[Đông Ấn thuộc Hà Lan]], tấn công tàu bè và sân bay đối phương cũng như mở rộng phạm vi hoạt động đến tận miền Trung Philippines. Vào ngày [[12 tháng 9]], một thủy phi cơ của chiếc tàu tuần dương đã cứu vớt một phi công từ tàu sân bay ''Hornet'' bị rơi trong [[biển Camotes]]; rồi chỉ hai ngày sau đó, một hoạt động tìm kiếm giải cứu khác đã cứu vớt được hai phi công và hai thành viên đội bay xuất phát từ tàu sân bay {{USS|Wasp|CV-18|3}}.<ref name=DANFS/>
 
Đến giữa [[tháng 9]], khi máy bay thuộc Đội đặc nhiệm 38.1 hỗ trợ trên không cho [[Trận Morotai|chiến dịch chiếm đóng]] [[Morotai]], ''Wichita'' tiếp tục hộ tống cho các tàu sân bay nhằm bảo vệ cho cuộc đổ bộ cho đến ngày [[20 tháng 9]], khi lực lượng lên đường hướng đến đảo [[Luzon]] thuộc Philippines. Sang ngày hôm sau, máy bay thuộc đội đặc nhiệm không kích xuống khu vực phụ cận [[Manila]], gây nhiều thiệt hại cho không quân và tàu bè đối phương. Sáng sớm ngày [[22 tháng 9]], phía Nhật Bản tìm cách phản công; lúc 07 giờ 34 phút, chiếc tàu tuần dương bắn rơi một máy bay đối phương cách con tàu {{convert|50|ft|m|abbr=on}}, quả bom nó mang theo rơi xuống biển vô hại. Một kẻ tấn công thứ hai lại bị bắn rơi 11 phút sau đó, rơi cách con tàu khoảng {{convert|8000|yd|m|abbr=on}}.<ref name=DANFS/>
 
''Wichita'' tiếp tục nhiệm vụ hộ tống trong ngày [[24 tháng 9]] ở về phía Đông Bắc đảo [[Samar (đảo)|Samar]], trong khi máy bay thuộc Đội đặc nhiệm 38.1 tấn công căn cứ và tàu bè đối phương tại các đảo [[Cebu]], [[Negros]] và [[Coron, Palawan|Coron]], Philippines. Nó lên đường vào ngày hôm sau để hướng đến [[quần đảo Admiralty]], đi đến [[Manus (đảo)|Manus]] ba ngày sau đó. Chiếc tàu tuần dương lại lên đường vào ngày [[2 tháng 10]] cho một chiến dịch không kích nhắm vào [[Okinawa]]. Nó phải chịu đựng biển động nặng và gió mạnh trên đường đi cho đến ngày [[7 tháng 10]], và bắt đầu cùng các tàu sân bay tiếp cận nhanh đến mục tiêu vào ngày [[9 tháng 10]]. Các tàu sân bay bắt đầu tung ra các cuộc không kích vào ngày hôm sau. Đến 13 giờ 50 phút, một thủy phi cơ [[OS2U Kingfisher]] xuất phát từ tàu tuần dương hạng nhẹ {{USS|Biloxi|CL-80|3}} bị cạn nhiên liệu nên buộc phải hạ cánh gần ''Wichita'', nó đã hỗ trợ vớt và sửa chửa chiếc thủy phi cơ của con tàu bạn.<ref name=DANFS/>
 
Đến ngày [[11 tháng 10]], ''Wichita'' cùng đội đặc nhiệm di chuyển đến ngoài khơi [[mũi Engaño (Luzon)|mũi Engaño]] về phía cực Bắc đảo Luzon, nơi máy bay từ tàu sân bay không kích [[Aparri, Cagayan|Aparri]]. Sang ngày [[12 tháng 10]], đội đặc nhiệm lại không kích [[Đài Loan]] nhằm phá hủy các sân bay và căn cứ Nhật Bản trên đảo này; đây là một phần của hoạt động chuẩn bị cho [[chiến dịch Philippines (1944-1945)|chiến dịch tái chiếm]] Philippine, bắt đầu bằng việc đổ bộ lên đảo [[Leyte (đảo)|Leyte]]. Trong đợt không kích được tiếp nối sang ngày [[13 tháng 10]], họ đã bắn rơi nhiều máy bay đối phương và gây hư hại nặng cho các cơ sở trên bờ.<ref name=DANFS/>
 
Đội đặc nhiệm chịu đựng sự đề kháng và phản công đáng kể từ phía Nhật Bản. Sau khi tàu tuần dương hạng nặng {{USS|Canberra|CA-70|3}} trúng [[ngư lôi]] phóng từ máy bay làm ngập nước phòng động cơ và phòng nồi hơi, ''Wichita'' phải kéo ''Canberra'', và dưới sự hộ tống của ba tàu tuần dương hạng nhẹ và năm tàu khu trục, di chuyển đến một vị trí về phía Đông Luzon. Đến ngày [[14 tháng 10]], tàu tuần dương hạng nhẹ {{USS|Houston|CL-81|3}} tiếp tục trúng ngư lôi, và phải được tàu tuần dương hạng nặng {{USS|Boston|CA-69|3}} kéo đi. Đến sáng ngày hôm sau, một [[tàu kéo]] đến thay phiên cho ''Wichita'' trong nhiệm vụ kéo ''Canberra''; nhưng đang khi trên đường quay trở lại Đội đặc nhiệm 38.1, ''Wichita'' được lệnh tách ra để hộ tống cho ''Canberra'' và ''Houston'' rút lui về căn cứ an toàn.<ref name=DANFS/>
 
Máy bay Nhật Bản lại tấn công đội hình “Đội đặc nhiệm hư hại” vào ngày [[16 tháng 10]], bất chấp hàng rào phòng thủ của máy bay tiêm kích [[tuần tra chiến đấu trên không]] (CAP) xuất phát từ hai tàu sân bay hạng nhẹ. Một máy bay đối phương đã xoay xở đánh trúng thêm một quả ngư lôi vào ''Houston'' một lần nữa, nhưng chưa đủ để có thể đánh chìm con tàu. Thủy phi cơ Seagull của ''Wichita'' được phóng lên lúc 15 giờ 22 phút đã cứu vớt một phi công của tàu sân bay {{USS|Cabot|CVL-28|3}} làm nhiệm vụ CAP bị rơi trên biển. Không quân tiếp tục bảo vệ cho lực lượng rút lui ra khỏi tầm hoạt động của máy bay đối phương đặt căn cứ trên bờ.<ref name=DANFS/>
 
Sau khi né tránh một cơn bão vào ngày [[18 tháng 10]], ''Wichita'' tách khỏi lực lượng ba ngày sau đó, và sau khi được tiếp nhiên liệu, đã quay trở lại hoạt động tại khu vực về phía Tây Luzon. Nó sau đó quay xuống phía Nam hướng đến khu vực phía Tây đảo Leyte, trong khi máy bay từ tàu sân bay truy lùng lực lượng tàu chiến đối phương, rồi được phối thuộc cùng Lực lượng Đặc nhiệm 34 dưới quyền Phó đô đốc [[Willis A. Lee]], bao gồm những thiết giáp hạm và tàu tuần dương mạnh nhất. Lực lượng đi lên phía Bắc để truy kích các tàu sân bay Nhật Bản mới được phát hiện ở cách {{convert|140|mi|km|abbr=on}}. Máy bay từ tàu sân bay đã không kích xuống Lực lượng phía Bắc Nhật Bản dưới quyền Phó đô đốc [[Jisaburō Ozawa]], bao gồm những tàu sân bay còn lại của Hải quân Nhật, vốn hầu như không còn máy bay và chỉ hoạt động đơn thuần như là mồi nhữ nhằm lôi kéo Đệ Tam hạm đội Hoa Kỳ ra xa chiến trường chính tại Leyte.<ref name=DANFS/>
 
Sau đó, Lực lượng Đặc nhiệm 34 nhận được lệnh quay mũi xuống phía Nam trợ giúp cho những [[tàu sân bay hộ tống]] của [[Đệ Thất hạm đội Hoa Kỳ|Đệ Thất hạm đội]] ngoài khơi [[Samar]]. Tuy nhiên, ''Wichita'' nằm trong một đội đặc nhiệm bao gồm bốn tàu tuần dương và chín tàu khu trục, được cho tách ra để sáp nhập cùng Lực lượng Đặc nhiệm 38 và tiếp tục truy đuổi các tàu sân bay Nhật. Nó cùng tàu tuần dương {{USS|New Orleans|CA-32|3}} vượt lên trước để kết liễu những mục tiêu đã bị không kích gây hư hại. Sau năm giờ, nó phát hiện tàu sân bay hạng nhẹ [[Chiyoda (tàu sân bay Nhật)|''Chiyoda'']]; và đạn pháo 8-inch từ hai chiếc tàu tuần dương đã biến đối thủ thành một xác tàu bốc cháy trong vòng nửa giờ. ''Wichita'' ngừng bắn lúc 16 giờ 42 phút, và ''Chiyoda'' đắm chỉ 13 phút sau đó.<ref name=DANFS/>
 
== Phần thưởng ==
''Wichita'' được tặng thưởng 13 [[Ngôi sao Chiến đấu]] do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.<ref name=DANFS/>
 
== Xem thêm ==
Dòng 200:
 
== Tham khảo ==
{{Tham khảo|2}}
* {{cite DANFS | author=[[Naval Historical Center]] | title=Wichita I (CA-45) | url=https://www.history.navy.mil/research/histories/ship-histories/danfs/w/wichita-i.html | accessdate=2019-10-09}}
* Bài này có các trích dẫn từ nguồn [[:en:Dictionary of American Naval Fighting Ships]] thuộc [[phạm vi công cộng]].
 
== Liên kết ngoài ==