Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Wasp (CV-18)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
cite DANFS
Dòng 1:
{{chú thích trong bài}}
{{Dablink|Về những tàu chiến Hoa Kỳ khác mang cùng tên, xin xem [[USS Wasp]].}}
 
Hàng 30 ⟶ 29:
|Ship struck=[[1 tháng 7]] năm [[1972]]
|Ship nickname=
|Ship honors=8 × [[Ngôi sao Chiến đấutrận]]
|Ship captured=
|Ship fate= Bị bán để tháo dỡ năm [[1973]]
Hàng 57 ⟶ 56:
|}
 
'''USS ''Wasp'' (CV/CVA/CVS-18)''' là một trong số 24 [[tàu sân bay]] thuộc [[Essex (lớp tàu sân bay)|lớp ''Essex'']] được chế tạo cho [[Hải quân Hoa Kỳ]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế Chiến II]], và là chiếc tàu chiến thứ chín của Hải quân Mỹ mang [[USS Wasp|cái tên này]].<ref name=DANFS>{{cite web | title=Wasp IX (CV-18) | url=https://www.history.navy.mil/research/histories/ship-histories/danfs/w/wasp-ix.html | website=Naval History and Herritage Command | accessdate=19 February 2020}}</ref> ''Wasp'' được đưa vào hoạt động [[tháng mười một|tháng 11]] năm [[1943]], và đã hoạt động trong nhiều chiến dịch tại [[Chiến tranh Thái Bình Dương|Mặt trận Thái Bình Dương]], được tặng thưởng tám [[Ngôi sao Chiến đấutrận]]. Giống như nhiều chiếc tàu chị em với nó, ''Wasp'' được cho ngưng hoạt động không lâu sau khi chiến tranh kết thúc, nhưng được cho hiện đại hóa và tái hoạt động vào đầu những năm [[Thập niên 1950|1950]] như một tàu sân bay tấn công (CVA), và cuối cùngnhư một tàu sân bay chống tàu ngầm (CVS). Trong lượt phục vụ thứ hai này, nó hoạt động chủ yếu tại [[Đại Tây Dương]], [[Địa Trung Hải]] và vùng biển [[Vùng Caribe|Caribbe]]. Nó đóng một vai trò nổi bật trong chương trình thám hiểm vũ trụ có người lái khi phục vụ như tàu thu hồi chính cho các chuyến bay [[Gemini VI]], [[Gemini VII|VII]] và [[Gemini IX|IX]].
 
Nó được cho nghỉ hưu vào năm [[1972]] và được bán để tháo dỡ vào năm [[1973]].
 
==Thiết kế và chế tạo==
Con tàu được đặt lườn vào ngày [[18 tháng 3]] năm [[1942]] tại [[Quincy, Massachusetts]] bởi hãng [[Bethlehem Steel Company]]. Ban đầu nó được đặt tên là ''Oriskany'', nhưng sau khi chiếc tàu sân bay [[USS Wasp (CV-7)|''Wasp'' (CV-7)]] bị đánh chìm ngày [[15 tháng 9]] năm [[1942]] tại Nam Thái Bình Dương, nó được đặt lại tên là ''Wasp'' vào ngày [[13 tháng 11]] năm [[1942]] trong khi đang được chế tạo nhằm vinh danh chiếc tàu sân bay tiền nhiệm. Nó được hạ thủy vào ngày [[17 tháng 8]] năm [[1943]], được đ̣ỡ đầu bởi [[Julia M. Walsh]], em gái của Nghị sĩ tiểu bang [[Massachusetts]] [[David I. Walsh]], và được đưa vào hoạt động ngày [[24 tháng 11]] năm [[1943]] dưới quyền chỉ huy của Thuyền[[Đại trưởngtá Hải quân]] [[Clifton A. F. Sprague]].<ref name=DANFS/>
 
==Lịch sử hoạt động==
===Thế Chiến II===
====1943–1944====
Sau những chuyến đi chạy thử máy kéo dài đến tận cuối năm [[1943]], ''Wasp'' quay về xưởng tàu tại [[Boston]] một thời gian ngắn để chỉnh sửa các sai sót nhận thấy khi thử máy. Vào ngày [[10 tháng 1]] năm [[1944]], chiếc tàu sân bay mới rời Boston đi đến [[Hampton Roads, Virginia]], và ở lại đó cho đến cuối tháng khi nó khởi hành đi [[Trinidad]], căn cứ mà nó hoạt động cho đến ngày [[22 tháng 2]]. Nó quay về Boston năm ngày sau và chuẩn bị cho việc phục vụ tại Thái Bình Dương. Đầu [[tháng năm|tháng 5]], chiếc tàu chiến hướng về phía Nam, đi ngang qua [[kênh đào Panama]] và đến [[San Diego]], [[California]] ngày [[21 tháng 3]]; rồi đi đến [[Trân Châu Cảng]] ngày [[4 tháng 4]].<ref name=DANFS/>
 
Sau các cuộc thực tập huấn luyện ngoài khơi vùng biển Hawaii, ''Wasp'' lên đường hướng về [[quần đảo Marshall]]; và tại [[Majuro]] nó gia nhập Đội đặc nhiệm TG 58.6 vừa mới được thành lập dưới quyền chỉ huy của [[Chuẩn Đô đốc]] [[Alfred E. Montgomery]], là một thành phần của Lực lượng Đặc nhiệm tàu sân bay nhanh TF 58 của [[Phó Đô đốc]] [[Marc A. Mitscher]]. Vào ngày [[14 tháng 5]], nó cùng các tàu sân bay khác của Đội đặc nhiệm TG 58.6 là ''[[USS Essex (CV-9)|Essex]]'' và ''[[USS San Jacinto (CVL-30)|San Jacinto]]'' lên đường thực hiện cuộc không kích lên [[đảo Marcus]] và [[đảo Wake]] nhằm giúp cho đội đặc nhiệm mới có thêm kinh nghiệm chiến đấu, và cũng để thử nghiệm một phương thức phân công chiến đấu vừa mới được áp dụng: mỗi phi công được giao một mục tiêu cụ thể trước khi cất cánh, và cũng để vô hiệu hóa các hòn đảo trên chuẩn bị cho [[chiến dịch Marianas]] sắp đến. Khi tiến đến gần đảo Marcus, lực lượng được tách ra, gửi chiếc ''San Jacinto'' lên phía Bắc truy tìm những chiếc tàu cảnh giới Nhật Bản trong khi ''Wasp'' và ''Essex'' tung ra các đợt không kích trong các ngày [[19 tháng 5|19]] và [[20 tháng 5]] nhắm vào các cơ sở quân sự trên đảo. Máy bay Mỹ bị chống trả bởi một hỏa lực [[phòng không]] dày đặc, nhưng cũng gây được thiệt hại đang kể cho đối phương, ngăn không cho quân Nhật can thiệp vào cuộc đổ bộ sắp thực hiện lên đảo [[Saipan]].<ref name=DANFS/>
[[Tập tin:Murderers row at Ulithi Atoll - US Third fleet carriers at anchor on 8 December 1944 (80-G-294131).jpg|nhỏ|trái|USS ''Wasp'' tại đảo san hô Ulithi, ngày 8 tháng 12 năm 1944.]]
Khi điều kiện thời tiết ngăn trở việc tung ra các phi vụ trong ngày [[21 tháng 5]], hai chiếc tàu sân bay hợp cùng chiếc tàu sân bay ''San Jacinto'' hướng đến Wake. Máy bay của cả ba con tàu không kích nặng nề hòn đảo vào ngày [[24 tháng 5]], đủ làm vô hiệu hóa căn cứ này. Tuy nhiên, hệ thống chọn lựa sẵn mục tiêu cho mỗi máy bay không đáp ứng được sự kỳ vọng của Hải quân, và do đó các vị chỉ huy không quân chiến thuật quay lại chịu trách nhiệm chỉ đạo cuộc tấn công các máy bay dưới quyền.<ref name=DANFS/>
 
Sau cuộc tấn công lên đảo Wake, Đội đặc nhiệm 58.6 quay trở về Majuro chuẩn bị cho chiến dịch Mariana. Ngày [[6 tháng 6]], ''Wasp'' giờ đây được bố trí lại vào đội đặc nhiệm 58.2 cùng dưới sự chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Montgomery, khởi hành chuyến đi tấn công Saipan. Chiều ngày [[11 tháng 6]], máy bay được tung ra nhắm vào các sân bay trên đảo Saipan và [[Tinian]]. Chúng bị thách thức bởi khoảng 30 máy bay tiêm kích đặt căn cứ trên đất liền, và một số đã bị bắn hạ. Hỏa lực pháo phòng không khá dày đặc, nhưng máy bay Mỹ đã dũng cảm vượt qua và tiếp tục phá hủy một số máy bay Nhật còn đậu trên mặt đất.<ref name=DANFS/>
 
Trong ba ngày tiếp theo sau, máy bay tiêm kích Mỹ giờ đây hợp cùng những chiếc [[máy bay ném bom]] đột kích vào các căn cứ Nhật Bản trên đảo Saipan phá hủy hệ thống phòng thủ chuẩn bị cho cuộc đổ bộ được dự định diễn ra vào ngày [[15 tháng 6]]. Cho đến ngày [[17 tháng 6]], máy bay từ các đội đặc nhiệm 58.2 và 58.3 đã hỗ trợ gần mặt đất cho lực lượng [[Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ|Thủy quân Lục chiến]] đang chiến đấu trên các bãi độ bộ Saipan.<ref name=DANFS/>
 
Sau khi bàn giao lại cho các [[tàu sân bay hộ tống]] trách nhiệm hỗ trợ lực lượng trên bộ, các đội đặc nhiệm tàu sân bay nhanh tổ chức tiếp nhiên liệu rồi lên đường hội quân cùng các đội đặc nhiệm 58.1 và 58.4, vốn vừa mới quay về sau các đợt không kích lên các đảo [[Chichi Jima]] và [[Đảo Iō|Iwo Jima]] để ngăn ngừa lực lượng Nhật Bản trên các căn cứ tại đó phản công vào lực lượng Mỹ gần Saipan.<ref name=DANFS/>
 
Cùng lúc đó,, với ý định phòng thủ Saipan bằng mọi giá, Hải quân Nhật Bản đã tung lực lượng [[Hạm đội Liên hợp]] mạnh mẽ của Đô đốc [[Jisaburō Ozawa]] từ hướng [[quần đảo Sulu]] đến quần đảo Mariana để tìm cách đánh chìm các tàu chiến thuộc [[Đệ Ngũ Hạmhạm đội Hoa Kỳ|Đệ Ngũ hạm đội]] của Đô đốc [[Raymond A. Spruance]] và ngăn cản cuộc đổ bộ của quân Mỹ tạiitại Saipan. Tuy nhiên, không lâu sau khi lực lượng Nhật Bản rời [[Tawi Tawi]] sáng ngày [[13 tháng 6]], tàu ngầm Mỹ ''[[USS Redfin (SS-272)|Redfin]]'' đã trông thấy và báo cáo. Các tàu ngầm khác cũng tiếp xúc được các tàu chiến của Ozawa giúp cho Spruance theo dõi được đường đi của đối thủ khi họ len lỏi qua quần đảo [[Philippines]], vượt qua [[eo biển San Bernardino]] và đi vào [[biển Philippines|biển Philippine]].<ref name=DANFS/>
 
Trong suốt ngày [[18 tháng 6]], cả hai phía đều tung máy bay trinh sát ra để truy tìm vị trí của đối phương. Nhờ có được tầm bay xa hơn, máy bay Nhật đã có được một số tin tức về những tàu chiến của Spruance, trong khi máy bay trinh sát Mỹ không thể tìm thấy lực lượng của Ozawa. Sáng sớm ngày hôm sau, [[19 tháng 6]], máy bay từ các tàu sân bay của Mitscher hướng đến Guam để vô hiệu hóa sự phòng thủ của hòn đảo này cho trận chiến sắp đến, và trong một loạt các cuộc không chiến đã tiêu diệt được nhiều máy bay Nhật đặt căn cứ trên mặt đất.<ref name=DANFS/>
 
Trong buổi sáng, các tàu sân bay thuộc hạm đội của Ozawa trung ra bốn đợt không kích mạnh mẽ vào các đối thủ Mỹ của họ, nhưng hầu như bị đánh chặn toàn bộ. Hầu hết máy bay chiến đấu bị các máy bay tiêm kích và hỏa lực phòng không trên các con tàu bắn rơi mà không thể đánh chìm được chiếc tàu chiến Mỹ nào. Dù vậy, chúng cũng xoay xở đánh trúng được một quả bom vào ''[[USS South Dakota (BB-57)|South Dakota]]'', nhưng chiến công lẻ loi này không đủ để loại chiếc [[thiết giáp hạm]] khỏi vòng chiến.<ref name=DANFS/>
 
Ngày hôm đó, máy bay của Mitscher vẫn chưa tìm thấy hạm đội của Ozawa, nhưng các tàu ngầm Mỹ đã thành công trong việc đánh chìm hai tàu sân bay Nhật ''[[Taihō (tàu sân bay Nhật)|Taihō]]'' và ''[[Shōkaku (tàu sân bay Nhật)|Shōkaku]]''. Cuối buổi chiều, ba trong số bốn đội đặc nhiệm tàu sân bay nhanh của Mitscher hướng về phía Tây truy tìm hạm đội của Ozawa đang rút lui, chỉ để lại Đội đặc nhiệm 58.4 cùng các thiết giáp hạm cũ quanh khu vực Marianas hỗ trợ lực lượng trên bộ tại Saipan. Máy bay từ các tàu sân bay Mỹ vẫn không thể tìm thấy hạm đội Nhật cho đến giữa buổi chiều ngày [[20 tháng 6]] khi một phi công lái [[Grumman TBF Avenger|Avenger]] báo cáo phát hiện lực lượng của Ozawa ở vị trí cách các tàu sân bay Mỹ gần 480&nbsp;km (300 dặm). Mitscher táo bạo tung ra cuộc tấn công toàn diện cho dù ông biết rõ đêm sẽ xuống trước khi những chiếc máy bay quay trở về.<ref name=DANFS/>
 
Hơn hai giờ sau, các phi công Mỹ bắt kịp các con mồi. Họ đã gây hư hại nặng cho hai [[tàu chở dầu]] đến mức chúng phải bị tự đánh đắm; đánh chìm chiếc tàu sân bay ''[[Hiyō (tàu sân bay Nhật)|Hiyō]]'', đồng thời gây hư hại cho các tàu sân bay ''[[ryūhō (tàu sân bay Nhật)|Ryuho]]'', ''[[Junyō (tàu sân bay Nhật)|Junyō]]'' và ''[[Zuikaku (tàu sân bay Nhật)|Zuikaku]]'' cùng nhiều tàu chiến khác. Tuy nhiên, sau trận đánh vào lúc trời gần tối, một số máy bay Mỹ đã sử dụng quá nữa số nhiên liệu mang theo, gây ra sự lo ngại và căng thẳng trong chuyến bay quay trở về.<ref name=DANFS/>
 
Khi những chiếc tàu sân bay nhìn thấy chiếc máy bay đầu tiên quay trở về lúc 20 giờ 30 phút đêm hôm đó, Chuẩn Đô đốc [[J. J. Clark]] dũng cảm bất chấp mối đe dọa của các tàu ngầm Nhật khi ra lệnh mở hết tất cả các đèn trên các tàu để hướng dẫn cho các phi công đã mỏi mệt có thể hạ cánh.<ref name=DANFS/>
 
Sau khi một máy bay của ''Hornet'' đáp xuống chiếc ''Lexington'', Mitscher cho phép các phi công có thể hạ cánh trên bất kỳ tàu sân bay nào sẵn có. Tuy nhiên, cho dù có những nỗ lực bất thường như thế nhằm giúp đỡ các phi công, nhiều máy bay đã bị hết xăng trước khi về đến các tàu sân bay và bị rơi xuống biển.<ref name=DANFS/>
 
Khi thời gian đã trôi đi và các tính toán cho thấy không còn chiếc máy bay nào còn nhiên liệu để bay trên không, Mitscher ra lệnh cho các tàu sân bay quay lại truy đuổi những chiếc tàu của Ozawa còn sống sót; đặt niềm hy vọng nhiều vào việc tìm thấy các đội bay bị rơi xuống nước và cứu vớt họ, hơn là tham vọng bắt kịp Hạm đội Cơ động 1 Nhật Bản trước khi chúng quay về được khu vực chính quốc Nhật Bản, nơi được che chở bởi những máy bay đặt căn cứ trên đất liền. Trong cuộc truy kích, tàu của Mitcher đã vớt được 36 phi công và 26 thành viên đội bay khác.<ref name=DANFS/>
 
Sáng ngày [[21 tháng 6]], Đô đốc Spruance cho tách ''Wasp'' cùng tàu sân bay ''[[USS Bunker Hill (CV-17)|Bunker Hill]]'' khỏi các đội đặc nhiệm để hợp cùng các thiết giáp hạm của Đô đốc Lee tiếp tục truy đuổi theo Ozawa hầu phát hiện và tiêu diệt những con tàu bị hỏng rơi rớt lại. Cuộc săn đuổi kéo dài hai ngày mà không mang lại kết quả, nên lực lượng ứng biến này hướng về [[Eniwetok]] để được tiếp liệu và nghỉ ngơi.<ref name=DANFS/>
 
Thời gian nghỉ ngơi không kéo dài được lâu, khi vào ngày [[30 tháng 6]], ''Wasp'' khởi hành cùng với Đội đặc nhiệm 58.2 phối hợp với 58.1 thực hiện đợt không kích Iwo Jima và Chichi Jima. Máy bay từ các tàu sân bay không kích nặng nề những hòn đảo này trong các ngày[[3 tháng 7|3]] và [[4 tháng 7]], trong đó đã tiêu diệt được 75 máy bay đối phương, hầu hết là do không chiến. Cuối cùng là một màn kết thúc vĩ đại khi các [[tàu tuần dương]] trong lực lượng hộ tống đã dội pháo xuống Iwo Jima trong hai giờ rưỡi. Ngày hôm sau, [[5 tháng 7]], hai đội đặc nhiệm quay trở về quần đảo Mariana tấn công [[Guam]] và [[Rota (đảo)|Rota]] bắt đầu một nỗ lực kéo dài trên hai tuần lễ nhằm đánh phá hệ thống phòng ngự của Nhật Bản tại đây chuẩn bị cho cuộc đổ bộ lên Guam. Máy bay cất cánh từ ''Wasp'' cùng các tàu chị em của nó cung cấp sự hỗ trợ gần mặt đất cho lực lượng Thủy quân Lục chiến đổ bộ lên hòn đảo trong ngày [[21 tháng 7]].<ref name=DANFS/>
 
Ngày hôm sau, Đội đặc nhiệm 58.2 cùng hai đội tàu sân bay khác của Mitscher khởi hành đi về hướng Tây Nam đến khu vực Tây [[quần đảo Caroline|Caroline]], và tung ra các đợt không kích nhắm vào [[Palau]] trong ngày [[25 tháng 7]]. Sau đó lực lượng này được tách ra, và các đội đặc nhiệm 58.1 và 58.3 quay lên hướng Bắc tiếp tục các cuộc không kích nhằm vô hiệu hóa sự kháng cự tại [[Bonin]] và [[quần đảo Volcano]] trong khi ''Wasp'' cùng Đội đặc nhiệm 58.2 rút lui về hướng quần đảo Marshall để tiếp liệu, và đội quay về đến Eniwetok ngày [[2 tháng 8]].<ref name=DANFS/>
 
Trong thời gian ''Wasp'' ở lại căn cứ, Đô ̣đốc [[William Halsey, Jr.|Willliam Halsey]] thay thế cho Đô đốc Spruance vào ngày [[26 tháng 8]] và Đệ Ngũ hạm đội được đổi tên thành [[Đệ tam Hạm đội Hoa Kỳ|Đệ Tam hạm đội]]. Hai ngày sau, lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh, giờ đây là Lực lượng Đặc nhiệm 38 khởi hành hướng về Palaus. Ngày [[6 tháng 9]], ''Wasp'' giờ đây được điều về đội đặc nhiệm 38.1 của Phó Đô đốc [[John S. McCain, Sr.|John McCain]], bắt đầu một đợt không kích kéo dài ba ngày lên quần đảo Palaus. Vào ngày [[9 tháng 9]], nó hướng đến phía Nam Philippine để vô hiệu hóa lực lượng không quân đối phương tại đây trong khi lực lượng trên bộ chinh phục [[Morotai]], [[Peleliu]] và [[Ulithi]], ba hòn đảo sẽ hoạt động như những căn cứ tiền phương cần thiết cho chiến dịch giải phóng Philippine sắp tới. Máy bay từ các tàu sân bay không gặp phải sự kháng cự nào đáng kể khi tấn công các sân bay trên đảo [[Mindanao]] vào ngày hôm đó cũng như trong ngày [[10 tháng 9]]. Đợt không kích lên [[quần đảo Visayan]] vào các ngày [[12 tháng 8|12]] và [[13 tháng 8]] được thực hiện mà không chịu tổn thất nào và cũng đạt được thành công tương tự. Do biết được việc không có một hệ thống phòng không hoàn chỉnh của Nhật Bản tại phía Nam Philippine, các nhà chiến lược Đồng Minh đã cho ngưng một cuộc đổ bộ lên Mindanao vốn được hoạch định vào ngày [[16 tháng 11]]. Thay vào đó, lực lượng Đồng Minh đi thẳng đến đảo [[Leyte (đảo)|Leyte]] tiến hành việc tái chiếm Philippine trong vòng một tháng.
 
Trong thời gian ''Wasp'' ở lại căn cứ, Đô ̣đốc [[William Halsey, Jr.|Willliam Halsey]] thay thế cho Đô đốc Spruance vào ngày [[26 tháng 8]] và Đệ Ngũ hạm đội được đổi tên thành [[Đệ tam Hạm đội Hoa Kỳ|Đệ Tam hạm đội]]. Hai ngày sau, lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh, giờ đây là Lực lượng Đặc nhiệm 38 khởi hành hướng về Palaus. Ngày [[6 tháng 9]], ''Wasp'' giờ đây được điều về đội đặc nhiệm 38.1 của Phó Đô đốc [[John S. McCain, Sr.|John McCain]], bắt đầu một đợt không kích kéo dài ba ngày lên quần đảo Palaus. Vào ngày [[9 tháng 9]], nó hướng đến phía Nam Philippine để vô hiệu hóa lực lượng không quân đối phương tại đây trong khi lực lượng trên bộ chinh phục [[Morotai]], [[Peleliu]] và [[Ulithi]], ba hòn đảo sẽ hoạt động như những căn cứ tiền phương cần thiết cho chiến dịch giải phóng Philippine sắp tới. Máy bay từ các tàu sân bay không gặp phải sự kháng cự nào đáng kể khi tấn công các sân bay trên đảo [[Mindanao]] vào ngày hôm đó cũng như trong ngày [[10 tháng 9]]. Đợt không kích lên [[quần đảo Visayan]] vào các ngày [[12 tháng 8|12]] và [[13 tháng 8]] được thực hiện mà không chịu tổn thất nào và cũng đạt được thành công tương tự. Do biết được việc không có một hệ thống phòng không hoàn chỉnh của Nhật Bản tại phía Nam Philippine, các nhà chiến lược Đồng Minh đã cho ngưng một cuộc đổ bộ lên Mindanao vốn được hoạch định vào ngày [[16 tháng 11]]. Thay vào đó, lực lượng Đồng Minh đi thẳng đến đảo [[Leyte (đảo)|Leyte]] tiến hành việc tái chiếm Philippine trong vòng một tháng.<ref name=DANFS/>
[[Tập tin:USS Wasp (CV-18) at sea in the Western Pacific on 6 August 1945 (80-G-261904).jpg|nhỏ|USS ''Wasp'' vào ngày 6 tháng 8 năm 1945]]
Vào [[ngày D]] ở Palaus, [[15 tháng 9]], ''Wasp'' cùng Đội đặc nhiệm 38.1 ở cách Morotai 80&nbsp;km (50 dặm) và tung ra các đợt không kích. Sau đó chúng quay về Philippine để "thăm viếng" Mindanao và Visaya lần nữa trước khi rút lui về [[quần đảo Admiralty|Admiralty]] ngày [[29 tháng 9]] để được tiếp liệu tại đảo [[Manus (đảo)|Manus]] chuẩn bị cho việc giải phóng Philippine.<ref name=DANFS/>
 
Sẵn sàng để hoạt động tác chiến trở lại, chiếc tàu sân bay lên đường vào ngày [[4 tháng 10]] hướng về phía biển Philippine nơi Lực lượng Đặc nhiệm 38 được tập họp vào lúc chiều tối ngày [[7 tháng 10]] ở địa điểm 604&nbsp;km (375 dặm) phía Tây quần đảo Mariana. Nhiệm vụ của nó là vô hiệu hóa các sân bay trong tầm hoạt động đến quần đảo Philippine để ngăn chặn máy bay Nhật có thể can thiệp vào cuộc đổ bộ của lực lượng Mỹ lên đảo Leyte được dự định bắt đầu vào ngày [[20 tháng 10]]. Những chiếc tàu sân bay di chuyển lên phía Bắc để gặp gỡ một nhóm chín tàu chở dầu và thực hiện việc tiếp nhiên liệu suốt ngày hôm sau, [[8 tháng 10]]. Sau đó chúng di chuyển theo hướng Tây Bắc về hướng [[quần đảo Nansei|quần đảo Ryūkyū]] cho đến ngày [[10 tháng 10]] khi máy bay của chúng tấn công [[Okinawa]], [[Amami, Kagoshima|Amami]] và [[Miyaki]]. Trong ngày hôm đó, máy bay của Lực lượng Đặc nhiệm 38 chỉ tiêu diệt được một [[tàu tiếp liệu tàu ngầm]] Nhật, 12 thuyền buồm nhỏ và khoảng hơn 100 máy bay. Nhưng đây là lần đầu tiên kể từ khi [[Trung tá]] Doolittle thực hiện cuộc không kích Tokyo từ tàu sân bay ''[[USS Hornet (CV-8)|Hornet]]'' vào ngày [[18 tháng 4]] năm [[1942]], một lực lượng tàu sân bay Hải quân Hoa Kỳ tiến đến sát và tấn công vào các đảo chính quốc Nhật Bản.<ref name=DANFS/>
Vào [[ngày D]] ở Palaus, [[15 tháng 9]], ''Wasp'' cùng Đội đặc nhiệm 38.1 ở cách Morotai 80&nbsp;km (50 dặm) và tung ra các đợt không kích. Sau đó chúng quay về Philippine để "thăm viếng" Mindanao và Visaya lần nữa trước khi rút lui về [[quần đảo Admiralty|Admiralty]] ngày [[29 tháng 9]] để được tiếp liệu tại đảo [[Manus (đảo)|Manus]] chuẩn bị cho việc giải phóng Philippine.
 
Bắt đầu từ ngày [[12 tháng 10]], [[Đài Loan]] bị đặt trong tầm ngắm của máy bay từ Lực lượng Đặc nhiệm 38. Để đáp trả, Hải quân Nhật tung ra toàn bộ lực lượng không quân có được để bảo vệ hòn đảo chiến lược, cho dù làm như vậy có nghĩa là lấy đi hầu hết số máy bay trên các tàu sân bay. Dù vậy, những nỗ lực nhằm đánh lui Hạm đội Thái Bình Dương Mỹ đều bị thất bại. Vào lúc kết thúc các cuộc không chiến kéo dài ba ngày, phía Nhật Bản bị tổn thất hơn 500 máy bay và trên 20 tàu vận tải. Nhiều tàu hàng khác cũng bị hư hại, cũng như là các nhà chứa máy bay, trại lính, kho chứa, nhà máy công nghiệp và kho đạn. Tuy nhiên, chiến thắng mà Hải quân Mỹ đạt được cũng phải trả bằng một cái giá đáng kể, khi Lực lượng Đặc nhiệm 38 mất 79 máy bay cùng 64 phi công và thành viên đội bay, trong khi các tàu tuần dương ''Canberra'' và ''Houston'' cùng tàu sân bay ''Franklin'' bị hư hại do trúng bom.<ref name=DANFS/>
Sẵn sàng để hoạt động tác chiến trở lại, chiếc tàu sân bay lên đường vào ngày [[4 tháng 10]] hướng về phía biển Philippine nơi Lực lượng Đặc nhiệm 38 được tập họp vào lúc chiều tối ngày [[7 tháng 10]] ở địa điểm 604&nbsp;km (375 dặm) phía Tây quần đảo Mariana. Nhiệm vụ của nó là vô hiệu hóa các sân bay trong tầm hoạt động đến quần đảo Philippine để ngăn chặn máy bay Nhật có thể can thiệp vào cuộc đổ bộ của lực lượng Mỹ lên đảo Leyte được dự định bắt đầu vào ngày [[20 tháng 10]]. Những chiếc tàu sân bay di chuyển lên phía Bắc để gặp gỡ một nhóm chín tàu chở dầu và thực hiện việc tiếp nhiên liệu suốt ngày hôm sau, [[8 tháng 10]]. Sau đó chúng di chuyển theo hướng Tây Bắc về hướng [[quần đảo Nansei|quần đảo Ryūkyū]] cho đến ngày [[10 tháng 10]] khi máy bay của chúng tấn công [[Okinawa]], [[Amami, Kagoshima|Amami]] và [[Miyaki]]. Trong ngày hôm đó, máy bay của Lực lượng Đặc nhiệm 38 chỉ tiêu diệt được một [[tàu tiếp liệu tàu ngầm]] Nhật, 12 thuyền buồm nhỏ và khoảng hơn 100 máy bay. Nhưng đây là lần đầu tiên kể từ khi [[Trung tá]] Doolittle thực hiện cuộc không kích Tokyo từ tàu sân bay ''[[USS Hornet (CV-8)|Hornet]]'' vào ngày [[18 tháng 4]] năm [[1942]], một lực lượng tàu sân bay Hải quân Hoa Kỳ tiến đến sát và tấn công vào các đảo chính quốc Nhật Bản.
 
Rời Đài Loan, Lực lượng Đặc nhiệm 38 chuyển trọng tâm sang Philippine. Sau khi di chuyển đến vùng biển phía Đông đảo [[Luzon]], Đội đặc nhiệm 58.1 bắt đầu tung ra các cuộc không kích xuống hòn đảo này trong ngày [[18 tháng 10]] và tiếp tục cho đến hết ngày hôm sau, ném bom xuống [[Manila]] lần đầu tiên kể từ khi nó bị quân Nhật chiếm đóng vào đầu cuộc chiến.<ref name=DANFS/>
Bắt đầu từ ngày [[12 tháng 10]], [[Đài Loan]] bị đặt trong tầm ngắm của máy bay từ Lực lượng Đặc nhiệm 38. Để đáp trả, Hải quân Nhật tung ra toàn bộ lực lượng không quân có được để bảo vệ hòn đảo chiến lược, cho dù làm như vậy có nghĩa là lấy đi hầu hết số máy bay trên các tàu sân bay. Dù vậy, những nỗ lực nhằm đánh lui Hạm đội Thái Bình Dương Mỹ đều bị thất bại. Vào lúc kết thúc các cuộc không chiến kéo dài ba ngày, phía Nhật Bản bị tổn thất hơn 500 máy bay và trên 20 tàu vận tải. Nhiều tàu hàng khác cũng bị hư hại, cũng như là các nhà chứa máy bay, trại lính, kho chứa, nhà máy công nghiệp và kho đạn. Tuy nhiên, chiến thắng mà Hải quân Mỹ đạt được cũng phải trả bằng một cái giá đáng kể, khi Lực lượng Đặc nhiệm 38 mất 79 máy bay cùng 64 phi công và thành viên đội bay, trong khi các tàu tuần dương ''Canberra'' và ''Houston'' cùng tàu sân bay ''Franklin'' bị hư hại do trúng bom.
 
Vào ngày [[20 tháng 10]], trong khi những đơn vị Hoa Kỳ đầu tiên đổ bộ lên Leyte, ''Wasp'' di chuyển về vị trí tác chiến ở phía Nam hòn đảo nơi nó cùng các tàu sân bay chị em tung máy bay ra hỗ trợ gần mặt đất hỗ trợ cho những binh sĩ của tướng MacArthur, đồng thời tung những máy bay khác ra phá hủy các sân bay tại Mindanao, [[Cebu (đảo)|Cebu]], [[Negros]], [[Panay]] và Leyte. Đội đặc nhiệm 38.1 được tiếp nhiên liệu vào ngày hôm sau, và vào ngày [[22 tháng 10]], được cho rút về Ulithi để nhận thêm vũ khí và tiếp liệu.<ref name=DANFS/>
Rời Đài Loan, Lực lượng Đặc nhiệm 38 chuyển trọng tâm sang Philippine. Sau khi di chuyển đến vùng biển phía Đông đảo [[Luzon]], Đội đặc nhiệm 58.1 bắt đầu tung ra các cuộc không kích xuống hòn đảo này trong ngày [[18 tháng 10]] và tiếp tục cho đến hết ngày hôm sau, ném bom xuống [[Manila]] lần đầu tiên kể từ khi nó bị quân Nhật chiếm đóng vào đầu cuộc chiến.
 
Trong khi các tàu sân bay của McCain rời xa Philippine, các sự kiện lớn đã diễn ra tại vùng biển chung quanh quần đảo này. Đô đốc [[Soemu Toyoda]], Tổng tư lệnh Hạm đội Liên hợp Nhật Bản, ra lệnh thực hiện kế hoạch [[Sho-Go-1]], một cuộc phản công mang tính quyết định của hải quân ngoài khơi Leyte, tức [[Trận chiến vịnh Leyte]]. Theo kế hoạch này, các tàu sân bay của Ozawa được sử dụng như một miếng mồi nhằm nhữ Lực lượng Đặc nhiệm 38 lên phía Bắc Luzon khỏi các bãi đổ bộ tại Leyte; sau đó các tàu chiến hạng nặng Nhật Bản sẽ thoát ra từ hai hướng: từ phía Bắc bởi eo biển San Bernandino, và từ phía Nam qua eo biển Surigao.<ref name=DANFS/>
Vào ngày [[20 tháng 10]], trong khi những đơn vị Hoa Kỳ đầu tiên đổ bộ lên Leyte, ''Wasp'' di chuyển về vị trí tác chiến ở phía Nam hòn đảo nơi nó cùng các tàu sân bay chị em tung máy bay ra hỗ trợ gần mặt đất hỗ trợ cho những binh sĩ của tướng MacArthur, đồng thời tung những máy bay khác ra phá hủy các sân bay tại Mindanao, [[Cebu (đảo)|Cebu]], [[Negros]], [[Panay]] và Leyte. Đội đặc nhiệm 38.1 được tiếp nhiên liệu vào ngày hôm sau, và vào ngày [[22 tháng 10]], được cho rút về Ulithi để nhận thêm vũ khí và tiếp liệu.
 
Khi Lực lượng Trung tâm của Đô đốc Kurita vượt qua eo biển San Bernardino 30 phút sau nữa đêm ngày [[25 tháng 10]] và tiến dọc theo bờ Đông đảo Samar, chỉ có ba đội đặc nhiệm tàu sân bay hộ tống của Hạm đội 7: "Taffy 1", "Taffy 2" và "Taffy 3", cùng các tàu hộ tống nhỏ nhoi của chúng hiện diện để ngăn cản những thiết giáp hạm và tàu tuần dương hạng nặng của Kurita nhằm bảo vệ cho lực lượng đổ bộ Mỹ đang chiến đấu tại Leyte. Trong số chúng, "Taffy 3" ở vị trí cực Bắc, cách mũi Paninihian khoảng 64&nbsp;km (40 dặm); "Taffy 2" bảo vệ vịnh Leyte, và "Taffy 1" còn xa hơn về phía Nam canh chừng eo biển Surigao.<ref name=DANFS/>
Trong khi các tàu sân bay của McCain rời xa Philippine, các sự kiện lớn đã diễn ra tại vùng biển chung quanh quần đảo này. Đô đốc [[Soemu Toyoda]], Tổng tư lệnh Hạm đội Liên hợp Nhật Bản, ra lệnh thực hiện kế hoạch [[Sho-Go-1]], một cuộc phản công mang tính quyết định của hải quân ngoài khơi Leyte, tức [[Trận chiến vịnh Leyte]]. Theo kế hoạch này, các tàu sân bay của Ozawa được sử dụng như một miếng mồi nhằm nhữ Lực lượng Đặc nhiệm 38 lên phía Bắc Luzon khỏi các bãi đổ bộ tại Leyte; sau đó các tàu chiến hạng nặng Nhật Bản sẽ thoát ra từ hai hướng: từ phía Bắc bởi eo biển San Bernandino, và từ phía Nam qua eo biển Surigao.
 
Lúc 07 giờ 00 sáng, lực lượng của Kurita bắt đầu khai hỏa vào các tàu sân bay hộ tống nhỏ bé của "Taffy 3", vốn đang ở gần đối phương nhất, cùng những tàu hộ tống nhỏ nhoi nhưng gan dạ. Trong hơn hai giờ, hỏa lực pháo và máy bay của Taffy 3, được sự giúp đỡ bởi máy bay từ hai đội đặc nhiệm Taffy kia, đánh trả đối phương bằng ngư lôi, pháo và bom. Sau khi bị thiệt hại ba tàu tuần dương hạng nặng, và nghĩ rằng mình đang giáp chiến cùng Lực lượng Đặc nhiệm 38, Kurita đã ra lệnh rút lui.<ref name=DANFS/>
Khi Lực lượng Trung tâm của Đô đốc Kurita vượt qua eo biển San Bernardino 30 phút sau nữa đêm ngày [[25 tháng 10]] và tiến dọc theo bờ Đông đảo Samar, chỉ có ba đội đặc nhiệm tàu sân bay hộ tống của Hạm đội 7: "Taffy 1", "Taffy 2" và "Taffy 3", cùng các tàu hộ tống nhỏ nhoi của chúng hiện diện để ngăn cản những thiết giáp hạm và tàu tuần dương hạng nặng của Kurita nhằm bảo vệ cho lực lượng đổ bộ Mỹ đang chiến đấu tại Leyte. Trong số chúng,
"Taffy 3" ở vị trí cực Bắc, cách mũi Paninihian khoảng 64&nbsp;km (40 dặm); "Taffy 2" bảo vệ vịnh Leyte, và "Taffy 1" còn xa hơn về phía Nam canh chừng eo biển Surigao.
 
Cùng lúc đó, vào 08 giờ 48 phút, Đô đốc Halsey đánh điện cho Đô đốc McCain, ra lệnh cho Đội đặc nhiệm 38.1 – lúc đó được tiếp nhiên liệu trong khi đang trên đường đi Ulithi – phải quay lại vùng biển Philippine để giúp đỡ Taffy 3 trong cuộc chiến sống còn. ''Wasp'' và các tàu hộ tống hối hả hướng đến [[Samar (đảo)|Samar]] với tốc độ tối đa, và đến 10 giờ 30 phút, tung những máy bay đầu tiên ra tấn công các tàu chiến của Kurita lúc đó còn đang cách xa đến khoảng 530&nbsp;km (330 dặm). Trong khi các cuộc không kích này ít gây thiệt hại cho Lực lượng Trung tâm Nhật Bản, chúng góp phần củng cố cho quyết định của Kurita rút lui khỏi Leyte.<ref name=DANFS/>
Lúc 07 giờ 00 sáng, lực lượng của Kurita bắt đầu khai hỏa vào các tàu sân bay hộ tống nhỏ bé của "Taffy 3", vốn đang ở gần đối phương nhất, cùng những tàu hộ tống nhỏ nhoi nhưng gan dạ. Trong hơn hai giờ, hỏa lực pháo và máy bay của Taffy 3, được sự giúp đỡ bởi máy bay từ hai đội đặc nhiệm Taffy kia, đánh trả đối phương bằng ngư lôi, pháo và bom. Sau khi bị thiệt hại ba tàu tuần dương hạng nặng, và nghĩ rằng mình đang giáp chiến cùng Lực lượng Đặc nhiệm 38, Kurita đã ra lệnh rút lui.
 
Trong khi những máy bay của chúng còn đang trên không, các tàu sân bay của McCain tiếp tục tiến nhanh về phía Tây nhằm rút ngắn khoảng cách mà các phi công phải quay về, đồng thời đi đến một vị trí tối ưu vào lúc sáng sớm để có thể tung thêm nhiều máy bay truy kích hạm đội Nhật đang rút lui. Với những ánh sáng bình minh đầu tiên của ngày [[26 tháng 10]], Đội Đặc nhiệm TG 38.1, cùng với Đội Đặc nhiệm TG 38.2 của Chuẩn Đô đốc Bogan, cuối cùng cũng được Đô đốc Halsey gửi về phía Nam, đã tung ra đợt tấn công đầu tiên nhắm vào lực lượng của Kurita. Đợt tấn công thứ hai được tiếp nối hơn hai giờ sau đó. Chúng đã đánh chìm chiếc [[tàu tuần dương]] hạng nhẹ ''[[Noshiro (tàu tuần dương Nhật)|Noshiro]]'', và gây hư hại nặng, nhưng không thể đánh chìm, tàu tuần dương hạng nặng ''[[Kumano (tàu tuần dương Nhật)|Kumano]]''. Hai đội đặc nhiệm còn tung ra một đợt tấn công thứ ba vào đầu buổi chiều, nhưng không thể nâng cao thêm thành tích.<ref name=DANFS/>
Cùng lúc đó, vào 08 giờ 48 phút, Đô đốc Halsey đánh điện cho Đô đốc McCain, ra lệnh cho Đội đặc nhiệm 38.1 – lúc đó được tiếp nhiên liệu trong khi đang trên đường đi Ulithi – phải quay lại vùng biển Philippine để giúp đỡ Taffy 3 trong cuộc chiến sống còn. ''Wasp'' và các tàu hộ tống hối hả hướng đến [[Samar (đảo)|Samar]] với tốc độ tối đa, và đến 10 giờ 30 phút, tung những máy bay đầu tiên ra tấn công các tàu chiến của Kurita lúc đó còn đang cách xa đến khoảng 530&nbsp;km (330 dặm). Trong khi các cuộc không kích này ít gây thiệt hại cho Lực lượng Trung tâm Nhật Bản, chúng góp phần củng cố cho quyết định của Kurita rút lui khỏi Leyte.
 
Sau trận chiến vịnh Leyte, Đội Đặc nhiệm 38.1 tiếp tục hoạt động tại Philippines thêm hai ngày, thực hiện các hoạt động hỗ trợ gần mặt đất trước khi lên đường đi Ulithi vào ngày [[28 tháng 10]]. Tuy nhiên, khoảng thời gian nghỉ ngơi này tỏ ra ngắn ngủi - khi Chuẩn Đô đốc Montgomery nhận quyền chỉ huy Đội Đặc nhiệm 38.1 thay cho McCain được thăng chức thay thế Đô đốc Mitscher làm Tư lệnh Lực lượng Đặc Nhiệm 38. Máy bay Nhật đặt căn cứ trên bờ đã tấn công vào lực lượng đổ bộ tại các bãi đổ bộ ở Leyte vào ngày [[1 tháng 11]]. ''Wasp'' tham gia không kích các sân bay tại Luzon vào các ngày [[5 tháng 11|5]] và [[6 tháng 11]], phá hủy được trên 400 máy bay Nhật, hầu hết là trên mặt đất. Sau khi một máy bay tấn công cảm tử "[[thần phong|kamikaze]]" đánh trúng chiếc ''[[USS Lexington (CV-16)|Lexington]]'' trong chiến dịch này, Đô đốc McCain chuyển cờ hiệu của mình từ chiếc tàu sân bay nói trên sang ''Wasp'', và ít lâu sau cùng với nó quay trở về Guam để hoán đổi các liên đội không lực phối thuộc.<ref name=DANFS/>
Trong khi những máy bay của chúng còn đang trên không, các tàu sân bay của McCain tiếp tục tiến nhanh về phía Tây nhằm rút ngắn khoảng cách mà các phi công phải quay về, đồng thời đi đến một vị trí tối ưu vào lúc sáng sớm để có thể tung thêm nhiều máy bay truy kích hạm đội Nhật đang rút lui. Với những ánh sáng bình minh đầu tiên của ngày [[26 tháng 10]], Đội Đặc nhiệm TG 38.1, cùng với Đội Đặc nhiệm TG 38.2 của Chuẩn Đô đốc Bogan, cuối cùng cũng được Đô đốc Halsey gửi về phía Nam, đã tung ra đợt tấn công đầu tiên nhắm vào lực lượng của Kurita. Đợt tấn công thứ hai được tiếp nối hơn hai giờ sau đó. Chúng đã đánh chìm chiếc [[tàu tuần dương]] hạng nhẹ ''[[Noshiro (tàu tuần dương Nhật)|Noshiro]]'', và gây hư hại nặng, nhưng không thể đánh chìm, tàu tuần dương hạng nặng ''[[Kumano (tàu tuần dương Nhật)|Kumano]]''. Hai đội đặc nhiệm còn tung ra một đợt tấn công thứ ba vào đầu buổi chiều, nhưng không thể nâng cao thêm thành tích.
 
''Wasp'' quay trở lại Philippines trước giữa tháng và tiếp tục tấn công các mục tiêu đối phương tại đây cho đến ngày [[26 tháng 11]] khi các đơn vị của [[Không lực Lục quân Hoa Kỳ|Không lực Mỹ]] đảm nhận trách nhiệm hỗ trợ cho lực lượng tại Leyte. Lực lượng Đặc nhiệm 38 sau đó rút lui về Ulithi. Tại đây, các tàu sân bay nhận được một lực lượng không quân phối thuộc lớn hơn; và từ cuối [[tháng mười một|tháng 11]] đến đầu [[tháng mười hai|tháng 12]] tiến hành các cuộc thực tập huấn luyện chuẩn bị cho sự đối phó tốt hơn đối với các mối đe dọa tấn công cảm tử kamikaze.<ref name=DANFS/>
Sau trận chiến vịnh Leyte, Đội Đặc nhiệm 38.1 tiếp tục hoạt động tại Philippines thêm hai ngày, thực hiện các hoạt động hỗ trợ gần mặt đất trước khi lên đường đi Ulithi vào ngày [[28 tháng 10]]. Tuy nhiên, khoảng thời gian nghỉ ngơi này tỏ ra ngắn ngủi - khi Chuẩn Đô đốc Montgomery nhận quyền chỉ huy Đội Đặc nhiệm 38.1 thay cho McCain được thăng chức thay thế Đô đốc Mitscher làm Tư lệnh Lực lượng Đặc Nhiệm 38. Máy bay Nhật đặt căn cứ trên bờ đã tấn công vào lực lượng đổ bộ tại các bãi đổ bộ ở Leyte vào ngày [[1 tháng 11]]. ''Wasp'' tham gia không kích các sân bay tại Luzon vào các ngày [[5 tháng 11|5]] và [[6 tháng 11]], phá hủy được trên 400 máy bay Nhật, hầu hết là trên mặt đất. Sau khi một máy bay tấn công cảm tử "[[thần phong|kamikaze]]" đánh trúng chiếc ''[[USS Lexington (CV-16)|Lexington]]'' trong chiến dịch này, Đô đốc McCain chuyển cờ hiệu của mình từ chiếc tàu sân bay nói trên sang ''Wasp'', và ít lâu sau cùng với nó quay trở về Guam để hoán đổi các liên đội không lực phối thuộc.
 
Lực lượng Đặc nhiệm 38 rời Ulithi trong các ngày [[10 tháng 12|10]] và [[11 tháng 12]] di chuyển đến một vị trí phía Đông Luzon để tiến hành các cuộc không kích liên tục cả ngày và đêm xuống các sân bay trên đảo này từ ngày [[14 tháng 12|14]] đến ngày [[16 tháng 12]] để ngăn ngừa máy bay Nhật Bản can thiệp vào cuộc đổ bộ xuống bờ biển Tây Nam Mindoro dự kiến vào ngày [[15 tháng 12]]. Sau đó, khi rút lui đến một điểm hẹn tiếp nhiên liệu về phía Đông Philippines, Lực lượng Đặc nhiệm 38 chịu đựng một cơn [[bão]] hung hãn làm hư hại các con tàu và nhấn chìm ba [[tàu khu trục]]. Các tàu sân bay trải qua tuần lễ tiếp theo sửa chữa các hư hỏng do cơn bão và quay về Ulithi vào dịp lễ Giáng Sinh.<ref name=DANFS/>
''Wasp'' quay trở lại Philippines trước giữa tháng và tiếp tục tấn công các mục tiêu đối phương tại đây cho đến ngày [[26 tháng 11]] khi các đơn vị của [[Không lực Lục quân Hoa Kỳ|Không lực Mỹ]] đảm nhận trách nhiệm hỗ trợ cho lực lượng tại Leyte. Lực lượng Đặc nhiệm 38 sau đó rút lui về Ulithi. Tại đây, các tàu sân bay nhận được một lực lượng không quân phối thuộc lớn hơn; và từ cuối [[tháng mười một|tháng 11]] đến đầu [[tháng mười hai|tháng 12]] tiến hành các cuộc thực tập huấn luyện chuẩn bị cho sự đối phó tốt hơn đối với các mối đe dọa tấn công cảm tử kamikaze.
 
Lực lượng Đặc nhiệm 38 rời Ulithi trong các ngày [[10 tháng 12|10]] và [[11 tháng 12]] di chuyển đến một vị trí phía Đông Luzon để tiến hành các cuộc không kích liên tục cả ngày và đêm xuống các sân bay trên đảo này từ ngày [[14 tháng 12|14]] đến ngày [[16 tháng 12]] để ngăn ngừa máy bay Nhật Bản can thiệp vào cuộc đổ bộ xuống bờ biển Tây Nam Mindoro dự kiến vào ngày [[15 tháng 12]]. Sau đó, khi rút lui đến một điểm hẹn tiếp nhiên liệu về phía Đông Philippines, Lực lượng Đặc nhiệm 38 chịu đựng một cơn [[bão]] hung hãn làm hư hại các con tàu và nhấn chìm ba [[tàu khu trục]]. Các tàu sân bay trải qua tuần lễ tiếp theo sửa chữa các hư hỏng do cơn bão và quay về Ulithi vào dịp lễ Giáng Sinh.
 
====1945====
Nhịp độ ngày càng tăng nhanh của cuộc chiến cắt đứt sự yên bình trong vũng biển. Trước khi năm cũ kết thúc, chiếc tàu sân bay quay trở lại hoạt động, tấn công các sân bay tại Philippine, [[Sakishima Gunto]] và tại Okinawa. Các cuộc không kích này được thực hiện nhằm dọn đường cho cuộc tấn công của Tướng MacArthur nhằm chiếm đóng Luzon ngang qua [[vịnh Lingayen]]. Trong khi máy bay từ các tàu sân bay không thể hoàn toàn dập tắt mọi sự đề kháng bằng không quân của Nhật Bản đối với cuộc đổ bộ Luzon, họ cũng tiêu diệt được nhiều máy bay đối phương để giảm thiểu mối đe dọa từ trên không xuống đến mức quản lý được.<ref name=DANFS/>
 
Trong đêm đầu tiên sau các cuộc đổ bộ ban đầu xuống Luzon, Halsey đưa Lực lượng Đặc nhiệm 38 tiến vào [[Biển Đông|biển Nam Trung Quốc]] trong một tuần lễ khi máy bay và tàu chiến của ông gây thiệt hại nặng nề cho máy bay và tàu bè Nhật Bản trước khi họ rút lui qua [[eo biển Luzon]] vào ngày [[16 tháng 1]] và quay trở lại khu vực biển Philippine. Thời tiết xấu đã ngăn trở máy bay của Halsey hoạt động trong vài ngày; nhưng đến [[21 tháng 1]] chúng tiến hành ném bom Đài Loan, quần đảo [[Pescadore]] và [[Sakishima]]. Ngày hôm sau, những chiếc máy bay quay trở lại khu vực Sakishima và Ryūkyū để ném bom và trinh sát. Lực lượng Đặc nhiệm tàu sân bay nhanh đã mệt mỏi được cho rút lui về Ulithi và tiến vào vũng biển tại đây vào ngày [[26 tháng 1]].<ref name=DANFS/>
 
Trong khi các tàu sân bay được nghỉ ngơi lại sức tại Ulithi, Đô đốc Spruance thay thế Đô đốc Halsey chỉ huy Hạm đội, vốn giờ đây được đổi tên từ Hạm đội 3 thành Hạm đội 5; sự "biến thái" này cũng đưa đến việc Đô đốc Mitscher thay phiên cho Đô đốc McCain chỉ huy lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay, và Đô đốc Clark tiếp nhận quyền chỉ huy Đội Đặc nhiệm 58.1 vốn bao gồm ''Wasp''. Hoạt động lớn tiếp theo sau nằm trong chiến lược của Đồng Minh với mục tiêu chiếm đảo [[Đảo Iō|Iwo Jima]] trong [[quần đảo Volcano]]. Hòn đảo này được cần đến như là một căn cứ cho máy bay tiêm kích của Không lực Mỹ để hộ tống bảo vệ cho những chiếc [[máy bay ném bom]] [[Boeing B-29 Superfortress|B-29 Superfortress]] đặt căn cứ tại Mariana trong các cuộc không kích xuống các đảo chính quốc Nhật Bản, và như một điểm đáp khẩn cấp cho những máy bay bị hư hại. Lực lượng Đặc nhiệm 58 khởi hành vào ngày [[10 tháng 2]], tiến hành tổng dợt tại Tinian, rồi hướng đến Nhật Bản.<ref name=DANFS/>
 
Máy bay tiêm kích được cho cất cánh từ các tàu sân bay trước lúc bình minh ngày [[16 tháng 2]] để quét sạch không quân đối phương khỏi bầu trời Nhật Bản. Họ đã thành công trong nhiệm vụ này, nhưng ''Wasp'' cũng bị mất nhiều máy bay chiến đấu trong cuộc càn quét. Các phi vụ ném bom được tiếp nối, chủ yếu nhắm vào các nhà máy sản xuất máy bay trong khu vực Tokyo, như mây phủ dày đặc đã che khuất nhiều nơi, buộc một số máy bay phải thả bom xuống những mục tiêu phụ. Thời tiết xấu cũng ngăn trở các phi công của Mitscher trong các phi vụ sáng hôm sau, buộc ông phải hủy bỏ các cuộc tấn công theo kế hoạch vào buổi xế chiều và đưa Lực lượng Đặc nhiệm 58 hướng về phía Tây. Trong đêm, Mitscher hướng các tàu sân bay của mình về phía quần đảo Volcano để sẵn sàng hỗ trợ trên không cho cuộc đổ bộ trên các bãi biển của Iwo Jima được dự tính vào sáng ngày [[19 tháng 2]].<ref name=DANFS/>
 
Trong vài ngày tiếp theo, máy bay từ các tàu sân bay Mỹ tiếp tục hỗ trợ lực lượng Thủy quân Lục chiến đang tham gia trận chiến đẫm máu nhằm giành lại quyền kiểm soát hòn đảo từ những người bảo vệ cuồng tín. Vào ngày [[23 tháng 2]], Mitscher đưa những tàu sân bay của mình đến Japan thực hiện thêm những cuộc không kích xuống Tokyo. Máy bay cất cánh vào sáng ngày [[25 tháng 2]], nhưng khi bay đến Tokyo, họ phát hiện rằng các mục tiêu bị ẩn dưới các đám mây. Hơn nữa, tầm nhìn còn tệ hại đến mức cuộc không kích xuống [[Nagoya]] dự tính vào ngày hôm sau phải bị hủy bỏ, và các tàu sân bay di chuyển về phía Nam hướng đến quần đảo Ryūkyū để ném bom và trinh sát Okinawa, mục tiêu tiếp theo dự tính giành từ phía Đế quốc Nhật Bản. Máy bay rời tàu sân bay vào lúc bình minh ngày [[1 tháng 3]]; và trong suốt ngày hôm đó họ đã tấn công và chụp ảnh các hòn đảo trong nhóm đảo Ryūkyū. Sau một cuộc bắn phá ban đêm từ các tàu nổi, Lực lượng Đặc nhiệm 58 lên đường quay về quần đảo Caroline và thả neo trong vũng biển Ulithi vào ngày [[4 tháng 3]].<ref name=DANFS/>
 
Tuần lễ bận rộn nhất của ''Wasp'' trong suốt cuộc chiến được ghi nhận từ ngày [[17 tháng 3|17]] đến ngày [[23 tháng 3]]. Trong vòng bảy ngày này, ''Wasp'' bắn rơi 14 máy bay trên không, tiêu diệt thêm sáu chiếc trên mặt đất, ném bom trúng hai tàu sân bay đối phương mỗi chiếc bởi hai quả bom 230&nbsp;kg (500&nbsp;lb), ném hai quả bom 450&nbsp;kg (1.000&nbsp;lb) xuống một thiết giáp hạm Nhật và một quả 450&nbsp;kg (1.000&nbsp;lb) xuống một thiết giáp hạm khác, đánh trúng một [[tàu tuần dương hạng nặng]] với ba quả bom 230&nbsp;kg (500&nbsp;lb), và ném trúng một quả bom 450&nbsp;kg (1.000&nbsp;lb) vào một tàu hàng lớn, bắn phá nặng nề "và có thể đã đánh chìm" một tàu ngầm Nhật lớn. Cũng trong tuần lễ này, ''Wasp'' phải chịu đựng những cuộc tấn công hầu như liên tục của máy bay đặt căn cứ trên đất liền và trải qua nhiều cuộc tấn công tự sát ''kamikaze'' gần kề. Xạ thủ trên chiếc tàu sân bay đã bắn hơn 10.000 quả đạn pháo phòng không vào những kẻ tấn công.<ref name=DANFS/>
 
Ngày [[13 tháng 4]] năm [[1945]], ''Wasp'' quay về [[Xưởng hải quân Puget Sound]] tại [[Bremerton, Washington]] để sửa chữa những hư hại do quả bom ném trúng. Sau khi hoàn tất, nó lên đường hướng đến Hawaii, và sau một chặng dừng chân ngắn tại Trân Châu Cảng, lại hướng về khu vực chiến sự Tây Thái Bình Dương vào ngày [[12 tháng 7]] năm [[1945]]. ''Wasp'' tiến hành một cuộc ném bom lên đảo Wake và dừng chân ngắn hạn tại Eniwetok trước khi tái gia nhập lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh. Trong một bối cảnh hầu như vắng bóng mọi cuộc đối đầu trên không của máy bay đối phương, phi công của ''Wasp'' đã đánh vào [[Căn cứ hải quân Yokosuka]] gần Tokyo, nhiều sân bay và các trung tâm công nghiệp lân cận. Vào ngày [[9 tháng 8]], một máy bay ''kamikaze'' đã nhào xuống chiếc tàu sân bay, nhưng một xạ thủ cảnh giác, đang lau khẩu pháo của mình vào lúc đó, bắt đầu nổ súng vào chiếc máy bay. Anh bắn thẳng vào kính chắn gió và giết chết viên phi công, nhưng chiếc máy bay vẫn theo đà hướng thẳng đến. Sau đó anh bắn rời được một bên cánh của chiếc máy bay khiến nó lật qua và trượt khỏi con tàu.<ref name=DANFS/>
 
Sau đó, trong ngày [[15 tháng 8]], khi lệnh ngừng bắn đã được công bố, hai máy bay Nhật còn cố tấn công đội đặc nhiệm của ''Wasp''; tuy nhiên máy bay của ''Wasp'' vẫn còn tiến hành tuần tra chiến đấu trên không và đã bắn rơi hai đối thủ xuống biển. Đây là lần cuối cùng phi công và xạ thủ của ''Wasp'' đối đầu với kẻ thù Nhật Bản. Ngày [[25 tháng 8]] năm [[1945]], một cơn bão mạnh sức gió lên đến 140&nbsp;km/h (78 knot) đã ập đến và làm boong khoảng 9&nbsp;m (30&nbsp;ft) mũi của nó. Bất chấp khó khăn do phải cất cánh từ một sàn đáp ngắn hơn, chiếc tàu sân bay tiếp tục tung ra các phi vụ tuần tra và nhân đạo mang thực phẩm, thuốc men và tiếp liệu cho những [[tù binh|tù binh chiến tranh]] Mỹ tại [[Narumi]] gần Nagoya.<ref name=DANFS/>
 
Chiếc tàu sân bay quay về Boston tham dự [[Ngày Hải quân]] [[27 tháng 10]] năm [[1945]]. Đến ngày [[30 tháng 10]], ''Wasp'' lên đường đi đến Xưởng hải quân New York để được trang bị bổ sung phương tiện để có thể chuyên chở tối đa binh lính. Công việc hoàn tất vào ngày [[15 tháng 11]], cho phép nó có thể nhận 5.500 hành khách và 400 sĩ quan. Sau đó ''Wasp'' tạm thời hoạt động như một tàu chở binh lính trong [[Chiến dịch Magic Carpet (Thế Chiến II)|Chiến dịch Magic Carpet]]. Ngày [[17 tháng 2]] năm [[1947]], ''Wasp'' được cho ngừng hoạt động và được đưa về [[Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương]].<ref name=DANFS/>
 
=== Sau chiến tranh ===
==== 1948–1955 ====
[[Tập tin:USS Wasp (CVA-18) at sea in the Far East on 5 January 1955.jpg|nhỏ|USS ''Wasp'' vào năm 1954.]]
Mùa Hè năm [[1948]], ''Wasp'' được đưa ra khỏi hạm đội dự bị và được cho chuyển đến [[Xưởng hải quân New York]] để tái trang bị và cải biến, để nó có thể hoạt động cùng những kiểu máy bay to, nặng và nhanh hơn trong [[thời đại phản lực]]. Sau khi hoàn tất việc cải biến, chiếc tàu sân bay được cho tái hoạt động động vào ngày [[10 tháng 9]] năm [[1951]]. ''Wasp'' được phân bố về Hạm đội Đại Tây Dương vào [[tháng mười một|tháng 11]] năm [[1951]] và bắt đầu một giai đoạn chạy thử máy và huấn luyện kéo dài cho đến [[tháng hai|tháng 2]] năm [[1952]]. Quay trở về sau chuyến đi chạy thử máy, nó trải qua một tháng trong Xưởng hải quân New York chuẩn bị để hoạt động tại các vùng biển xa.<ref name=DANFS/>
 
Ngày [[26 tháng 4]] năm [[1952]], ''Wasp'' va chạm với [[tàu khu trục quét mìn]] ''[[USS Hobson (DD-464)|Hobson]]'' trong khi tiến hành các hoạt động thực tập bay ban đêm trên đường đi đến [[Gibraltar]]. ''Hobson'' bị mất 176 thành viên thủy thủ đoàn, kể cả thuyền trưởng của nó; các hoạt động cứ hộ nhanh chóng đã vớt được 52 người. ''Wasp'' không bị tổn hại nhân mạng, nhưng mũi tàu của nó bị xé rách răng cưa một khoảng 23&nbsp;m (75&nbsp;ft). Chiếc tàu sân bay đi đến [[Bayonne, New Jersey]] để sửa chữa, và sau khi nó vào ụ tàu tại đây, mũi của chiếc tàu sân bay [[USS Hornet (CV-12)|''Hornet'' (CV-12)]] lúc đó đang được cải biến hiện đại hóa, được cho tháo ra và được chuyển bằng xà lan từ [[Brooklyn|Brooklyn, New York]] để được lắp cho ''Wasp'', thay thế cho phần mũi bị hư hại nặng của con tàu. Công việc đáng kể này được hoàn tất chỉ trong vòng 10 ngày, cho phép chiếc tàu sân bay tiếp tục lên đường vượt Đại Tây Dương.<ref name=DANFS/>
 
Ngày [[2 tháng 6]] năm [[1952]], ''Wasp'' thay phiên cho tàu sân bay [[USS Tarawa (CV-40)|''Tarawa'' (CV-40)]] tại Gibraltar và gia nhập Hải đội Tàu sân bay 6 tại vùng biển [[Địa Trung Hải]]. Sau khi tiến hành các hoạt động huấn luyện bay giữa các chuyến viếng thăm hữu nghị các cảng trong khu vực, ''Wasp'' được chiếc [[USS Leyte (CV-32)|''Leyte'' (CV-32)]] thay phiên tại Gibraltar vào ngày [[5 tháng 9]]. Sau khi tham gia cuộc [[tập trận Mainbrace]] của khối [[NATO]] tại [[Greenock]], [[Scotland]], và một thời gian nghỉ ngơi tại [[Plymouth]], ''Wasp'' lên đường quay trở về nhà, về đến Norfolk vào sáng sớm ngày [[13 tháng 10]] năm [[1952]].<ref name=DANFS/>
 
Vào ngày [[7 tháng 11]] năm [[1952]], ''Wasp'' đi vào Xưởng hải quân New York tiến hành một đợt đại tu kéo dài bảy tháng nhằm chuẩn bị cho nó một chuyến đi phục vụ cùng Hạm đội Thái Bình Dương một lần nữa. Sau một đợt huấn luyện ôn tập tại khu vực Caribbe, ''Wasp'' rời Norfolk vào ngày [[16 tháng 9]] năm [[1953]]. Sau khi đi qua kênh đào Panama và vượt Thái Bình Dương, chiếc tàu sân bay ghé thăm ngắn Nhật Bản rồi tiến hành các hoạt động cùng Lực lượng Đặc nhiệm 77. Trong khi hoạt động tại Tây Thái Bình Dương, nó đã ghé thăm Hong Kong, Manila, Yokosuka và Sasebo.<ref name=DANFS/>
 
Vào ngày [[10 tháng 1]] năm [[1954]], Thống chế Trung Hoa dân quốc [[Tưởng Giới Thạch]] trải qua hơn bốn giờ trên chiếc ''Wasp'' theo dõi các cuộc tập trận không quân mô phỏng trong vùng biển Đài Loan. Vào ngày [[12 tháng 3]], Tổng thống [[Ramon Magsaysay]] của nước [[Philippines|Cộng hòa Philippines]] lên tàu để thị sát các hoạt động không quân như là khách mời của Đại sứ Hoa Kỳ [[Raymond A. Spruance]]. Trong một thời gian ''Wasp'' đã hoạt động ngoài khơi [[Căn cứ Hải quân vịnh Subic|vịnh Subic]], Philippines, rồi lên đường đi đến Nhật Bản, nơi mà nó được tàu sân bay ''[[USS Boxer (CV-21)|Boxer]]'' thay phiên vào [[tháng tư|tháng 4]] năm [[1954]], để lên đường quay trở về cảng nhà mới San Diego.<ref name=DANFS/>
 
''Wasp'' trải qua những tháng tiếp theo chuẩn bị cho một chuyến đi khác đến Á Châu. Nó rời Hoa Kỳ vào [[tháng chín|tháng 9]] năm [[1954]] hướng sang Viễn Đông, ghé thăm Trân Châu Cảng và Iwo Jima trên đường đi. Nó thay phiên cho ''Boxer'' vào [[tháng mười|tháng 10]], rồi tham gia các hoạt động không quân tại biển Nam Trung Quốc với Đội Đặc nhiệm Tàu sân bay 70.2. ''Wasp'' viếng thăm Philippines vào [[tháng mười một|tháng 11]] và [[tháng mười hai|tháng 12]] và đi đến Nhật Bản vào đầu năm [[1955]] để gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 77. Trong thời gian hoạt động cùng với đơn vị này, ''Wasp'' đã hỗ trợ trên không cho cuộc triệt thoái lực lượng Trung Hoa dân quốc khỏi [[quần đảo TachenĐại Trần]] (Dachen) ngoài khơi tỉnh [[Chiết Giang]].<ref name=DANFS/>
 
Sau cuộc triệt thoái Tachen, ''Wasp'' ghé qua Nhật Bản trước khi quay về San Diego vào [[tháng tư|tháng 4]]. Nó đi vào [[Xưởng hải quân San Francisco]] vào [[tháng năm|tháng 5]] cho một đợt đại tu và nâng cấp kéo dài bảy tháng. Ngày [[1 tháng 12]], chiếc tàu sân bay quay trở lại hoạt động với một [[sàn đáp]] chéo góc và một [[mũi tàu chống bão]]. Cuối năm [[1955]], ''Wasp'' quay trở về San Diego chuẩn bị cho một đợt hoạt động khác tại Viễn Đông.<ref name=DANFS/>
 
==== 1956–1960 ====
Sau những hoạt động huấn luyện vào các tháng đầu năm [[1956]], ''Wasp'' rời San Diego vào ngày [[23 tháng 4]] cho một chuyến đi khác đến Viễn Đông cùng với Liên đội Không lực Tàu sân bay 15 trên tàu. Nó ghé lại Trân Châu Cảng để được thị sát và huấn luyện, rồi tiếp tục đi đến Guam, đến kịp lúc để tham gia lễ hội [[Ngày Quân đội]] [[14 tháng 5]]. Trên đường đến Nhật Bản trong [[tháng năm|tháng 5]], nó tham gia Lực lượng Đặc nhiệm 77 cho [[Chiến dịch Sea Horse]], một đợt tập trận huấn luyện ngày và đêm dành cho tàu chiến và máy bay kéo dài năm ngày. Nó đi đến Yokosuka vào ngày [[4 tháng 6]], viếng thăm [[Iwakuni]], rồi lên đường đi Manila cho một cuộc viếng thăm ngắn. Sau một giai đoạn trong ụ tàu tại Yokosuka, ''Wasp'' lại đi về phía nam đến [[Cubi Point]], Philippine, nhân dịp khánh thành một căn cứ không lực hải quân mới tại đây. Liên đội Không lực Tàu sân bay 15 đã có buổi biểu diễn trên không dành cho Tổng thống Magsaysay và Đô đốc [[Arthur Radford]]. Vào giữa [[tháng tám|tháng 8]], ''Wasp'' quay về Yokosuka dự định một kỳ nghỉ kéo dài hai tuần, nhưng lại phải lên đường sớm hỗ trợ những tàu khác trong việc tìm kiếm những người sống sót, sau khi một máy bay tuần tra Hải quân bị bắn rơi vào ngày [[23 tháng 8]] ngoài khơi bờ biển Trung Hoa lục địa. Sau cuộc tìm kiếm vô vọng, con tàu đi đến [[Kobe]], Nhật Bản, rồi ghé qua Yokosuka trước khi rời Viễn Đông.<ref name=DANFS/>
 
''Wasp'' quay trở lại San Diego vào ngày [[15 tháng 10]], và sau đó được xếp lại lớp như một tàu sân bay [[chiến tranh chống tàu ngầm|chống tàu ngầm]] với ký hiệu '''CVS-18''' vào ngày [[1 tháng 11]] năm [[1956]]. Nó trải qua những ngày cuối cùng của năm [[1956]] tại San Diego chuẩn bị cho việc chuyển sang hoạt động tại Bờ Đông. ''Wasp'' rời San Diego ngày [[31 tháng 1]] năm [[1957]], đi vòng qua [[cape Horn|mũi Horn]] cho các hoạt động tại Nam Đại Tây Dương và vùng biển Caribbe, rồi tiếp tục hướng đến Boston, đến nơi vào ngày [[21 tháng 3]]. Nó đi đến Norfolk, Virginia, vào ngày [[6 tháng 4]] để nhận lên tàu những thành viên thủy thủ đoàn của mình từ [[Trường Chiến tranh Chống tàu ngầm]]. Chiếc tàu sân bay trải qua những tháng tiếp theo thực hành chiến thuật dọc theo Bờ Đông và vùng biển ngoài khơi [[Bermuda]] trước khi quay trở về Boston vào ngày [[16 tháng 8]].<ref name=DANFS/>
 
Vào ngày [[3 tháng 9]] năm [[1957]], ''Wasp'' lên đường tham gia các cuộc tập trận [[Chiến dịch Strikeback#Chiến dịch Seaspray|"Seaspray"]] và [[Chiến dịch Strikeback|"Strikeback"]] của khối [[NATO]], đưa nó đến vùng bờ biển Scotland để mô phỏng các cuộc tấn công và phản công hạt nhân từ 130 căn cứ khác nhau trên bờ. Chiếc tàu sân bay quay trở về Boston vào ngày [[23 tháng 10]] và đi vào [[Xưởng hải quân Boston]] cho một đợt đại tu vốn chỉ hoàn tất vào ngày [[10 tháng 3]] năm [[1958]], khi nó lên đường thực hiện một cuộc thực hành chống tàu ngầm tại [[vịnh Guantánamo]], [[Cuba]]. Khi quay trở về Boston vào ngày [[29 tháng 4]] và nhận lên tàu các phi đội không lực phối thuộc tại [[Căn cứ Không lực Hải quân Quonset Point]], Rhodes Island, vào ngày [[12 tháng 5]], nó trở thành hạt nhân của Lực lượng Đặc nhiệm 66, một hải đội đặc biệt chống tàu ngầm trực thuộc Đệ Lục hạm đội.<ref name=DANFS/>
 
Chiếc tàu sân bay bắt đầu vượt Đại Tây Dương vào ngày [[12 tháng 5]], và chỉ mới đi được vài trăm dặm khi xung đột nổ ra tại [[Liban]]. ''Wasp'' đi đến Gibraltar vào ngày [[21 tháng 5]] rồi tiếp tục hướng sang phía Đông, ghé qua [[vịnh Souda]], [[Kríti|Crete]], [[Rhodes]] và [[Athena|Athens]]. Sau đó ''Wasp'' trải qua 10 ngày ngoài biển tiến hành một cuộc tập trận chống tàu ngầm phối hợp giữa Hoa Kỳ và [[Ý]] trong [[biển Tyrrhenian]] ngoài khơi Sardinia. Đến ngày [[15 tháng 7]], chiếc tàu sân bay lại lên đường để tuần tra tại vùng biển ngoài khơi Liban. Phi đội máy bay trực thăng vận chuyển của Thủy quân Lục chiến đã rời tàu trong năm ngày để thiết lập một doanh trại tại [[Sân bay quốc tế Beirut]]. Họ thực hiện các phi vụ trinh sát cũng như vận chuyển những người bệnh và bị thương thuộc các tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến chiếm đóng trên đồi đến bệnh viện đóng tại sân bay. Nó tiếp tục hỗ trợ cho lực lượng trên bộ tại Liban cho đến ngày [[17 tháng 9]] năm [[1958]], khi nó rời cảng Beirut hướng về nhà. Nó về đến Norfolk vào ngày [[7 tháng 10]], chất dỡ hàng tiếp liệu, rồi ghé qua Quonset Point một chặng ngắn trước khi về đến cảng nhà Boston của nó vào ngày [[11 tháng 10]].<ref name=DANFS/>
 
Bốn ngày sau, ''Wasp'' trở thành soái hạm của Đội đặc nhiệm Bravo, một trong hai đội phòng thủ chống tàu ngầm vừa mới được Tổng tư lệnh Hạm đội Đại Tây Dương thành lập. Liên đội không lực của ''Wasp'' và bảy tàu khu trục tháp tùng được sự hỗ trợ của thủy phi cơ tuần tra đặt căn cứ trên bờ. Nó khởi hành từ Quonset Point vào ngày [[26 tháng 11]] cho một chuyến đi kéo dài 17 ngày tại Bắc Đại Tây Dương. Giai đoạn ngoài biển khơi này đánh dấu lần đầu tiên lực lượng của nó hoạt động chung với nhau như một đội; và hoạt động này tiếp diễn cả ngày lẫn đêm để phát triển khả năng phối hợp và làm việc đồng đội; cho đến khi nó quay trở về Boston vào ngày [[13 tháng 12]] năm [[1958]], và ở lại đây cho đến hết kỳ nghỉ lễ Giáng Sinh.<ref name=DANFS/>
 
''Wasp'' hoạt động cùng với Đội đặc nhiệm Bravo trong suốt năm [[1959]], đi dọc theo bờ Đông Hoa Kỳ tiến hành các hoạt động ngoài khơi Norfolk, Bermuda và Quonset Point. Vào ngày [[27 tháng 2]] năm [[1960]], nó đi vào Xưởng hải quân Boston để đại tu. Đến giữa [[tháng bảy|tháng 7]], chiếc tàu sân bay được lệnh đi đến khu vực Nam Đại Tây Dương và thường trực ngoài khơi bờ biển [[Châu Phi]] vào lúc một cuộc nội chiến đang nổ ra tại nước [[Cộng hòa Dân chủ Congo|Congo]] vừa mới được độc lập, và đã hoạt động hỗ trợ cho chiến dịch không vận của [[Liên Hiệp Quốc]]. Nó quay trở về cảng nhà vào ngày [[11 tháng 8]] rồi trải qua thời gian còn lại của năm hoạt động ngoài khơi Boston thực hiện những chuyến viếng thăm vịnh Guantánamo, Cuba, cùng những đợt huấn luyện ôn tập và thực hành được tổ chức tại vùng biển [[Virginia Capes]] và Caribbe. Chiếc tàu sân bay quay trở về Boston vào ngày [[10 tháng 12]] và ở lại đây cho đến kỳ nghỉ lễ Năm Mới.<ref name=DANFS/>
 
==== 1961–1965 ====
Ngày [[9 tháng 1]] năm [[1961]], ''Wasp'' lên đường đi đến khu vực thực tập Virginia Capes, dành ra một nửa đầu của năm [[1961]] thực hành tại đây, tại [[vịnh Narragansett]], Rhodes Island, và tại [[Nova Scotia]]. Vào ngày [[9 tháng 6]], ''Wasp'' khởi hành từ Norfolk cho một chuyến đi kéo dài ba tháng đến Địa Trung Hải. Chiếc tàu sân bay tiến hành thực tập tại vịnh Augusta, Sicilia; Barcelona, Tây Ban Nha; San Remo và La Spezia, Ý; vịnh Aranci, Sardinia; Genoa, Ý và Cannes, Pháp, và quay về đến Boston vào ngày [[1 tháng 9]]. Nó đi vào Xưởng hải quân Boston cho một đợt bảo trì giữa kỳ rồi tiếp tục hoạt động vào ngày [[6 tháng 11]] năm [[1961]].<ref name=DANFS/>
 
Sau khi nhận hàng tiếp liệu và thiết bị, ''Wasp'' trải qua giai đoạn từ ngày [[11 tháng 1|11]] đến ngày [[18 tháng 1]] năm [[1962]] tiến hành các cuộc thực tập chống tàu ngầm và khảo sát tàu ngầm ngoài khơi bờ Đông. Sau một chặng dừng ngắn tại Norfolk, nó tiếp nối các cuộc thực hành huấn luyện và thả neo ngoài khơi Bermuda từ ngày [[24 tháng 1|24]] đến ngày [[31 tháng 1]]. Sau đó ''Wasp'' quay trở về cảng nhà.<ref name=DANFS/>
 
Ngày [[18 tháng 2]], ''Wasp'' khởi hành từ Boston hướng sang Anh Quốc, đi đến [[Portsmouth]] vào ngày [[1 tháng 3]]. Đến ngày [[16 tháng 3]], chiếc tàu sân bay đi đến [[Rotterdam]], [[Hà Lan]], cho một cuộc viếng thăm thiện chí kéo dài một tuần. Từ ngày [[22 tháng 3|22]] đến ngày [[30 tháng 3]], ''Wasp'' đi đến Greenock, Scotland, rồi tiếp tục đi đến Plymouth. Vào ngày [[17 tháng 4]], Hạm trưởng Brewer trao tặng cho Ngài [[Alderman A. Goldberg]], Thị trưởng thành phố Plymouth, một bức ảnh lớn của chiếc tàu buồm ''[[Mayflower II]]'' như là một món quà hữu nghị của dân cư thành phố [[Plymouth, Massachusetts]]. Đến ngày [[5 tháng 5]], ''Wasp'' đi đến [[Kiel]], [[Tây Đức]], trở thành chiếc tàu sân bay đầu tiên từng ghé thăm cảng này. Nó còn ghé thăm [[Oslo]], [[Reykjavík]] và [[Căn cứ Hải quân Argentia|Argentia]], [[Newfoundland]] trước khi quay trở về Boston vào ngày [[16 tháng 6]].<ref name=DANFS/>
 
Từ [[tháng 8]] đến [[tháng 10]], ''Wasp'' thực hiện các chuyến viếng thăm đến [[Newport, Rhode Island]], New York và [[Earle, New Jersey]]. Khi xảy ra vụ [[Khủng hoảng tên lửa Cuba]] do việc phát hiện [[Liên Xô]] bố trí [[tên lửa đạn đạo]] tầm trung mang đầu đạn [[hạt nhân]] trên hòn đảo tại [[Trung Mỹ]]; vào ngày [[1 tháng 11]], nó đã lên đường theo lệnh [[Tổng thống Hoa Kỳ|Tổng thống]] [[John F. Kennedy]] và đã tham gia vào việc phong tỏa Cuba, gây áp lực buộc đối thủ phải tháo dỡ tên lửa. Khi mối căng thẳng đã dịu đi thông qua đàm phán hòa bình, chiếc tàu sân bay quay trở về Boston vào ngày [[22 tháng 11]] để bảo trì, rồi vào ngày [[21 tháng 12]] lại lên đường đi Bermuda cùng với 18 học viên từ các trường đại học tại khu vực Boston. ''Wasp'' quay trở về Boston vào ngày [[29 tháng 12]].<ref name=DANFS/>
 
Sang đầu năm [[1963]], ''Wasp'' thực hành chống tàu ngầm ngoài khơi Virginia Capes, rồi di chuyển dọc theo bờ biển Caribe của [[Costa Rica]] nhân chuyến viếng thăm của Tổng thống Kennedy tại [[San José, Costa Rica|San José]]; Tổng thống đã có cuộc hội đàm với tổng thống của sáu nước vùng [[Trung Mỹ]] vào ngày [[21 tháng 3]]. Sau khi tham gia cuộc tập trận hạm đội ngoài khơi [[Puerto Rico]], nó quay trở về Boston vào ngày [[4 tháng 4]]. Từ ngày [[11 tháng 5|11]] đến ngày [[18 tháng 5]], con tàu có mặt ngoài khơi [[Bermuda]] để dự phòng cho việc thu hồi tàu không gian trong khuôn khổ [[Chương trình Mercury]], nhân chuyến bay lên quỹ đạo kéo dài một ngày đêm của phi hành gia [[Gordon Cooper]]. Cho dù chuyến bay gặp những trục trặc kỹ thuật, việc hạ cánh vẫn diễn ra theo đúng như kế hoạch, và Cooper cùng tàu không gian [[Faith 7]] được tàu sân bay {{USS|Kearsarge|CVA-33|3}} vớt lên tại Thái Bình Dương gần đảo [[Midway]].<ref name=DANFS/>
 
''Wasp'' sau đó tiếp nối hoạt động thực hành huấn luyện chống tàu ngần dọc theo bờ biển Đại Tây Dương và vùng biển Caribe. Vào mùa Thu năm [[1963]], con tàu được đại tu tại Xưởng hải quân Boston, nơi nó đồng thời cũng thực hiện gói nâng cấp SCB-144 trong khuôn khổ Chương trình [[Hồi sinh và Hiện đại hóa Hạm đội]] II (FRAM: Fleet Rehabilitation and Modernization). Các cải tiến bao gồm việc bổ sung một bộ [[sonar]] [[sonar AN/SQS-23|AN/SQS-23]] gắn trước mũi, và cải thiện màn hình hiển thị trong Trung tâm Thông tin Tác chiến. Sau khi hoàn thành việc sửa chữa và nâng cấp vào [[tháng 3]] năm [[1964]], nó chạy thử máy tại vùng biển ngoài khơi Boston, và sang [[tháng 4]] đã quay trở lại hoạt động thường lệ từ Norfolk và vịnh Narragansett. Con tàu đi đến Boston vào ngày [[4 tháng 5]] và ở lại đây cho đến ngày [[14 tháng 5]], khi nó lên đường để hoạt động huấn luyện ôn tập tại vùng biển giữa [[vịnh Guantánamo, Cuba]] và [[Kingston, Jamaica]]; nó quay trở về cảng nhà vào ngày [[3 tháng 6]].<ref name=DANFS/>
 
Vào ngày [[21 tháng 7]], [[1964]], ''Wasp'' bắt đầu chuyến đi khứ hồi đến Norfolk và quay trở về Boston vào ngày [[7 tháng 8]]. Nó ở lại cảng cho đến ngày [[8 tháng 9]], khi nó khởi hành cho chuyến đi đến [[Valencia]], [[Tây Ban Nha]] ngang qua [[Virginia Capes]]. Con tàu tiếp tục chuyến đi tại vùng biển Địa Trung Hải, viếng thăm các cảng Tây Ban Nha, [[Pháp]] và [[Ý]] trước khi quay trở về nhà vào ngày [[18 tháng 12]].<ref name=DANFS/>
 
''Wasp'' ở lại cảng cho đến ngày [[8 tháng 2]], [[1965]], khi nó lên đường cho đợt tập trận hạm đội tại vùng biển Caribe. Tiếp tục hoạt động dọc theo vùng bờ Đông, nó đã tham gia vào [[Chương trình Gemini]] khi phục vụ cho việc thu hồi tàu không gian [[Gemini IV]] cùng các phi hành gia [[James McDivitt]] và [[Ed White]] khi họ đáp xuống Bắc Đại Tây Dương vào ngày [[7 tháng 6]]; chuyến bay này đánh dấu lần đầu tiên một phi hành gia Hoa Kỳ, Ed White, bước ra ngoài không gian. Mùa Hè năm đó, con tàu tham gia vào việc tìm kiếm cứu nạn một máy bay cảnh báo sớm [[Lockheed C-121 Constellation|Lockheed EC-121 Warning Star]] của Không quân bị rơi ngoài khơi đảo [[Nantucket]], [[Massachusetts]] do trục trặc động cơ. Sau đó nó đón tiếp 12 nghị sĩ quốc hội trong một chuyến đi trình diễn trong các ngày [[20 tháng 8|20]] và [[21 tháng 8]], trước khi lên đường đi sang Châu Âu cho một cuộc tập trận phối hợp cùng lực lượng Pháp và Đức. Từ ngày [[16 tháng 12|16]] đến ngày [[18 tháng 12]], chiếc tàu sân bay lại làm nhiệm vụ thu hồi tàu không gian và phi hành gia cho các chuyến bay [[Gemini VI]] và [[Gemini VII|VII]], rồi quay trở về Boston vào ngày [[22 tháng 12]].<ref name=DANFS/>
 
==== 1966–1967 ====
[[Tập tin:Gemini Crew Welcomed by Wasp Crew - GPN-2000-001415.jpg|left|thumb|220px|Các phi hành gia Cernan và Stafford của chuyến bay Gemini IX đang được chào đón trên ''Wasp'', 9 tháng 6, 1966]]
''Wasp'' khởi hành từ Boston vào ngày [[24 tháng 1]], [[1966]] để tham gia cuộc tập trận hạm đội ngoài khơi Puerto Rico; tuy nhiên trên đường đi, biển động nặng và gió giật đã gây những hư hại cấu trúc cho chiếc tàu sân bay. Nó đi vào [[Căn cứ Hải quân Roosevelt Roads]], Puerto Rico vào ngày [[1 tháng 2]] để xác định mức độ hư hỏng và sửa chữa những gì có thể làm được; kỹ sư được cử từ Boston đến đã xác định con tàu phải kết thúc cuộc Tập trận "Springboard" sớm để quay trở về Boston. Nó tiến hành những hoạt động chống tàu ngầm giới hạn từ ngày [[6 tháng 2|6]] đến ngày [[8 tháng 2]] trước khi rời vùng biển Caribe, và về đến Boston vào ngày [[18 tháng 2]]. Việc sửa chữa hoàn tất vào ngày [[7 tháng 3]].<ref name=DANFS/>
 
''Wasp'' tham gia cuộc tập trận tại khu vực ngoài khơi [[vịnh Narragansett]], [[Rhode Island]] trước khi quay trở về vào ngày [[24 tháng 3]]. [[Ernst Lemberger]], Đại sứ [[Áo]] tại Hoa Kỳ, đã viếng thăm con tàu vào ngày [[27 tháng 3]]. Đến ngày [[18 tháng 4]], nó đón lên tàu nhiều vị khách mời của [[Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ|Bộ trưởng Hải quân]] và lên đường đi sang khu vực vịnh Guantánamo, Cuba; nó quay trở về Boston vào ngày [[6 tháng 5]]. Một tuần sau đó, chiếc tàu sân bay lại lên đường làm nhiệm vụ thu hồi tàu không gian cho Chương trình Gemini; có mặt trên tàu bao gồm khoảng 66 nhân sự của [[NASA]], phóng viên truyền hình và báo chí, một đội y tế của Bộ Quốc Phòng cùng một đội người nhái thuộc đội phá hoại dưới nước (UDT). Khi tàu không gian [[Gemini IX]] đáp xuống vào ngày [[6 tháng 6]], nó đã vớt các phi hành gia [[Thomas Patten Stafford|Thomas P. Stafford]] và [[Eugene Cernan]] rồi đưa họ bằng máy bay về [[mũi Canaveral|mũi Kennedy]], trong khi tàu không gian được nó đưa về Boston.<ref name=DANFS/>
 
''Wasp'' sau đó tham gia cuộc tập trận [[ASWEX III]], một đợt thực tập chống tàu ngầm kéo dài từ ngày [[20 tháng 6]] đến ngày [[1 tháng 7]], [[1966]]. Nó ở lại cảng Boston cho đến khi lại lên đường vào ngày [[25 tháng 7]] tiếp tục tham gia cuộc tập trận "[[ASWEX IV]]". Trong đợt này, tàu thu thập thông tin tình báo [[Liên Xô]] ''[[Agi Traverz]]'' đã xâm nhập khu vực tập trận, khiến cuộc tập trận phải tạm dừng và sắp xếp lại đội hình lực lượng; cuộc tập trận chấm dứt vào ngày [[5 tháng 8]]. Sau một chuyến viếng thăm [[New York, New York|New York]] kéo dài hai ngày, con tàu quay trở về Boston vào ngày [[1 tháng 9]] và được bảo trì cho đến ngày [[19 tháng 9]]. Cho đến ngày [[4 tháng 10]], con tàu tiến hành các hoạt động tìm/diệt tàu ngầm cùng những máy bay thuộc [[Hải quân Hoàng gia Canada]] hoạt động trên tàu.<ref name=DANFS/>
 
Sau khi được bảo trì tại Boston, một lần nữa ''Wasp'' lại tham gia nhiệm vụ thu hồi tàu không gian cho Chương trình Gemini từ ngày [[5 tháng 11|5]] đến ngày [[18 tháng 11]]. Tàu [[Gemini XII]] đã hạ cánh vào ngày [[15 tháng 11]] tại địa điểm chỉ các chiếc tàu sân bay {{convert|3|mi|km|adj=on}}; các phi hành gia [[James A. Lovell]] và [[Edwin E. Aldrin]] được máy bay trực thăng vớt và ở lại trên tàu trong hai ngày. Con tàu mang tàu không gian Gemini XII quay trở về cảng Boston vào ngày [[18 tháng 11]], và sau khi chất dỡ những thiết bị chuyên dùng cho việc thu hồi, nó ở lại cảng cho đến ngày [[28 tháng 11]]. Nó khởi hành từ Boston để tham gia cuộc tập trận lớn nhất hàng năm của Hạm đội Đại Tây Dương, "[[Lantflex-66]]", nơi có hơn 100 tàu chiến Hoa Kỳ tham gia; nó quay trở về Boston vào ngày [[16 tháng 12]] và ở lại cảng cho đến hết năm đó.<ref name=DANFS/>
 
''Wasp'' phục vụ như một tàu huấn luyện chuẩn nhận phi công tàu sân bay trực thuộc [[Bộ chỉ huy Huấn luyện Không lực Hải quân]] từ ngày [[24 tháng 1]] đến ngày [[26 tháng 2]], [[1967]], và tiến hành những hoạt động trong [[vịnh Mexico]] và ngoài khơi bờ biển phía Đông Florida. Nó tham gia lễ hội [[Mardi Gras tại New Orleans]] từ ngày [[4 tháng 2|4]] đến ngày [[8 tháng 2]], viếng thăm [[Pensacola, Florida|Pensacola]] trong các ngày [[11 tháng 2|11]] và [[12 tháng 2]] và [[Mayport, Florida]] trong các ngày [[19 tháng 2|19]] và [[20 tháng 2]]. Quay trở lại Boston một tuần sau đó, nó ở lại cảng cho đến ngày [[19 tháng 3]], rồi lên đường tham gia cuộc tập trận "Springboard" hàng năm tại vùng biển Caribe. Nó gặp gỡ {{USS|Salamonie|AO-26|3}} vào ngày [[24 tháng 3]] để tiến hành tiếp nhiên liệu trên đường đi, nhưng bị hư hại do mắc tai nạn va chạm với chiếc tàu chở dầu.<ref name=DANFS/>
 
Sau khi được sửa chữa tại Roosevelt Roads, ''Wasp'' quay trở lại hoạt động vào ngày [[29 tháng 3]], viếng thăm [[Charlotte Amalie, Quần đảo Virgin thuộc Mỹ|Charlotte Amalie]] tại đảo [[St. Thomas, Quần đảo Virgin thuộc Mỹ|St. Thomas]], và tham gia những lễ hội từ ngày [[30 tháng 3]] đến ngày [[2 tháng 4]], đánh dấu 50 năm [[Quần đảo Virgin thuộc Mỹ]] được Hoa Kỳ mua lại từ [[Đan Mạch]]. Chiếc tàu sân bay quay trở lại Boston vào ngày [[7 tháng 4]], nhưng chỉ lại cảng trong bốn ngày trước khi đi đến [[Earle, New Jersey]], nơi nó chất dỡ đạn dược khỏi tàu trước khi đại tu. Nó viếng thăm New York trong ba ngày rồi quay trở lại Xưởng hải quân Boston, nơi nó bắt đầu được đại tu từ ngày [[21 tháng 4]]. Công việc sửa chữa chỉ hoàn tất vào đầu năm [[1968]].<ref name=DANFS/>
 
==== 1968–1970 ====
''Wasp'' tiến hành chạy thử máy sau đại tu suốt [[tháng 1]], [[1968]]. Quay trở lại Xưởng hải quân Boston vào ngày [[28 tháng 1]], nó chuẩn bị cho một đợt đánh giá kỹ thuật từ đầu [[tháng 2]]. Chiếc tàu sân bay bắt đầu một đợt huấn luyện ôn tập từ ngày [[28 tháng 2]], kéo dài gần năm tuần, dưới quyền Tư lệnh Đội huấn luyện hạm đội tại vịnh Guantánamo, Cuba. Nó khởi hành vào ngày [[30 tháng 3]] để đi lên phía Bắc, ở lại cảng Boston để bảo trì và sửa chữa nhỏ từ ngày [[6 tháng 4|6]] đến ngày [[29 tháng 4]], rồi lên đường đi sang khu vực quần đảo [[Bahamas]] để thực hành huấn luyện và tham gia cuộc tập trận "Fixwex C" ngoài khơi bờ biển [[Bermuda]]. Nó quay trở về cảng nhà vào ngày [[20 tháng 5]], rồi lại lên đường năm ngày sau đó để hoạt động chuẩn nhận tàu sân bay cho học viên phi công thuộc Bộ chỉ huy Huấn luyện Không lực Hải quân tại khu vực [[Jacksonville, Florida]].<ref name=DANFS/>
 
Vào ngày [[12 tháng 6]], ''Wasp'' mắc tai nạn va chạm nhẹ với tàu chở dầu {{USS|Truckee|AO-147|3}} đang khi được tiếp nhiên liệu trên đường đi. Nó quay trở về Norfolk, nơi tình huống dẫn đến va chạm được điều tra, rồi lên đường đi Boston vào ngày [[20 tháng 6]], nơi nó ở lại cho đến ngày [[3 tháng 8]], khi nó đi đến Norfolk để được chất đạn dược.<ref name=DANFS/>
 
Sau khi có quyết định vào ngày [[15 tháng 6]] chuyển cảng nhà của ''Wasp'' đến [[Quonset Point]], [[Rhode Island]], chiếc tàu sân bay đi đến cảng nhà mới vào ngày [[10 tháng 8]] và chuẩn bị để được phái đi hoạt động ở nước ngoài. Nó lên đường mười ngày sau đó để đi sang vùng biển Châu Âu, thoạt tiên thực hiện các chuyến viếng thăm các cảng Bắc Âu: [[Portsmouth]], [[Anh]]; [[Firth of Clyde]], [[Scotland]]; [[Hamburg]], [[Đức]] và [[Lisbon]], [[Bồ Đào Nha]]. Sau đó trong thành phần Đội đặc nhiệm 87.1, nó tham gia “Silvertower”, cuộc tập trận phối hợp quy mô lớn nhất của Khối [[NATO]] trong vòng bốn năm, bao gồm nhiều đơn vị hạm tàu nổi, không quân và tàu ngầm của hải quân nhiều nước trong khối.<ref name=DANFS/>
Vào ngày [[12 tháng 6]], ''Wasp'' mắc tai nạn va chạm nhẹ với tàu chở dầu {{USS|Truckee|AO-147|3}} đang khi được tiếp nhiên liệu trên đường đi. Nó quay trở về Norfolk, nơi tình huống dẫn đến va chạm được điều tra, rồi lên đường đi Boston vào ngày [[20 tháng 6]], nơi nó ở lại cho đến ngày [[3 tháng 8]], khi nó đi đến Norfolk để được chất đạn dược.
 
Vào ngày [[25 tháng 10]], ''Wasp'' đi sang [[Địa Trung Hải]] và gia nhập Đội đặc nhiệm 67.6 một ngày sau đó. Sau khi viếng thăm cảng [[Naples]], [[Ý]], nó lên đường vào ngày [[7 tháng 11]] để thực hành chống tàu ngầm tại các khu vực [[biển Tyrrhenian]], [[biển Levant]] và [[biển Ionia]]. Sau khi chất máy bay tại [[Taranto]] và Naples, con tàu đã viếng thăm [[Barcelona]], [[Tây Ban Nha]] và [[Gibraltar]] trước khi quay trở về Quonset Point vào ngày [[19 tháng 12]]. Sau khi được bảo trì trong xưởng tàu từ ngày [[10 tháng 1]] đến ngày [[17 tháng 2]], [[1969]], nó tiến hành tập trận tại khu vực Bermuda trước khi quay trở về Quonset Point vào ngày [[6 tháng 3]].<ref name=DANFS/>
Sau khi có quyết định vào ngày [[15 tháng 6]] chuyển cảng nhà của ''Wasp'' đến [[Quonset Point]], [[Rhode Island]], chiếc tàu sân bay đi đến cảng nhà mới vào ngày [[10 tháng 8]] và chuẩn bị để được phái đi hoạt động ở nước ngoài. Nó lên đường mười ngày sau đó để đi sang vùng biển Châu Âu, thoạt tiên thực hiện các chuyến viếng thăm các cảng Bắc Âu: [[Portsmouth]], [[Anh]]; [[Firth of Clyde]], [[Scotland]]; [[Hamburg]], [[Đức]] và [[Lisbon]], [[Bồ Đào Nha]]. Sau đó trong thành phần Đội đặc nhiệm 87.1, nó tham gia “Silvertower”, cuộc tập trận phối hợp quy mô lớn nhất của Khối [[NATO]] trong vòng bốn năm, bao gồm nhiều đơn vị hạm tàu nổi, không quân và tàu ngầm của hải quân nhiều nước trong khối.
 
''Wasp'' lại lên đường vào ngày [[1 tháng 4]], [[1969]] để vượt Đại Tây Dương, đi đến Lisbon, Bồ Đào Nha vào ngày [[16 tháng 4]]. Từ ngày [[21 tháng 4|21]] đến ngày [[26 tháng 4]], nó tham gia cuộc Tập trận “Trilant” có sự tham gia của hải quân Hoa Kỳ, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Chiếc tàu sân bay đi đến Portsmouth, Anh vào ngày [[15 tháng 5]], phục vụ như là [[soái hạm]] của Lực lượng Đặc nhiệm 87 và đại diện cho Hoa Kỳ tham gia cuộc [[Duyệt binh Hạm đội]] Khối NATO do [[Elizabeth II của Anh|Nữ hoàng Elizabeth II]] và [[Hoàng thân Philip, Quận công xứ Edinburgh|Hoàng tế Philip]] chủ trì, có sự tham gia của 64 tàu chiến thuộc 11 nước Khối NATO. Nó sau đó tham gia các cuộc tập trận và viếng thăm các cảng Bắc Âu: [[Rotterdam]], [[Hà Lan]]; [[Oslo]], [[Thụy Điển]] và [[Copenhagen]], [[Đan Mạch]] trước khi lên đường quay trở về nhà vào ngày [[30 tháng 6]].<ref name=DANFS/>
Vào ngày [[25 tháng 10]], ''Wasp'' đi sang [[Địa Trung Hải]] và gia nhập Đội đặc nhiệm 67.6 một ngày sau đó. Sau khi viếng thăm cảng [[Naples]], [[Ý]], nó lên đường vào ngày [[7 tháng 11]] để thực hành chống tàu ngầm tại các khu vực [[biển Tyrrhenian]], [[biển Levant]] và [[biển Ionia]]. Sau khi chất máy bay tại [[Taranto]] và Naples, con tàu đã viếng thăm [[Barcelona]], [[Tây Ban Nha]] và [[Gibraltar]] trước khi quay trở về Quonset Point vào ngày [[19 tháng 12]]. Sau khi được bảo trì trong xưởng tàu từ ngày [[10 tháng 1]] đến ngày [[17 tháng 2]], [[1969]], nó tiến hành tập trận tại khu vực Bermuda trước khi quay trở về Quonset Point vào ngày [[6 tháng 3]].
 
''Wasp'' lại lêncảng đườngQuonset vàoPoint ngày [[1 tháng 4]], [[1969]] để vượt Đại Tây Dương, đicho đến Lisbon, Bồ Đào Nha vào ngày [[1624 tháng 48]]. Từ ngày [[2129 tháng 4|218]] đến ngày [[266 tháng 410]], nó thamluân giaphiên cuộchoạt Tậpđộng trậntại “Trilant”khu vực sự[[Corpus tham gia của hải quân Hoa KỳChristi]], Tây[[Texas]] Banđể Nhahoạt động Bồchuẩn Đàonhận Nha.phi Chiếccông tàu sân bay đinâng đến Portsmouthcao, Anh vào ngàytại [[15 tháng 5Pensacola]], phục vụ như là [[soái hạmFlorida]] củađể Lựchuấn lượngluyện Đặcphi nhiệmcông 87tàu sân đạibay diện chobản, Hoacùng Kỳnhững thamđợt giaghé cuộcvào [[Duyệtcảng binhPensacola. Hạm đội]]được Khốibảo NATOtrì dotừ ngày [[Elizabeth10 IItháng của10]], Anh|Nữrồi hoàngquay Elizabethtrở II]]lại hoạt [[Hoàngđộng thântại Philip,vùng Quậnbiển côngngoài xứkhơi Edinburgh|Hoàng tế[[Virginia PhilipCapes]] chủcho trì,đến ngày sự[[22 tham gia của 64 tàu chiến thuộctháng 11]]. nướcSang Khối[[tháng NATO.12]], saulại đóhoạt thamđộng giachuẩn cácnhận cuộcphi tậpcông trậntàu sân viếngbay thămtại cáckhu cảngvực Bắc Âu: [[Rotterdam]]Jacksonville, [[Hàkéo Lan]];dài [[Oslo]],cho [[Thụyđến Điển]] vàngày [[Copenhagen]],10 [[Đantháng Mạch12]]. trước khi lên đường quay trở về nhàQuonset Point vào ngày [[3013 tháng 612]].<ref name=DANFS/>
 
== Phần thưởng ==
''Wasp'' ở lại cảng Quonset Point cho đến ngày [[24 tháng 8]]. Từ ngày [[29 tháng 8]] đến ngày [[6 tháng 10]], nó luân phiên hoạt động tại khu vực [[Corpus Christi]], [[Texas]] để hoạt động chuẩn nhận phi công tàu sân bay nâng cao, và tại [[Pensacola]], [[Florida]] để huấn luyện phi công tàu sân bay cơ bản, cùng những đợt ghé vào cảng Pensacola. Nó được bảo trì từ ngày [[10 tháng 10]], rồi quay trở lại hoạt động tại vùng biển ngoài khơi [[Virginia Capes]] cho đến ngày [[22 tháng 11]]. Sang [[tháng 12]], nó lại hoạt động chuẩn nhận phi công tàu sân bay tại khu vực Jacksonville, kéo dài cho đến ngày [[10 tháng 12]]. Nó quay trở về Quonset Point vào ngày [[13 tháng 12]].
''Wasp'' được tặng thưởng tám [[Ngôi sao Chiến trận]] do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.<ref name=DANFS/>
 
==Tham khảo==
=== Chú thích ===
{{Tham khảo}}
{{reflist}}
* Bài này có các trích dẫn từ nguồn [[:en:Dictionary of American Naval Fighting Ships]] thuộc [[phạm vi công cộng]].
=== Thư mục ===
* {{cite DANFS | author=[[Naval Historical Center]] | title=Wasp IX (CV-18) | url=https://www.history.navy.mil/research/histories/ship-histories/danfs/w/wasp-ix.html | accessdate=2019-10-09}}
==Xem thêm==