Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Aaron Ward (DM-34)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
cite DANFS
Dòng 62:
|}
 
'''USS ''Aaron Ward'' (DD-773/DM-34)''' là một [[tàu khu trục|tàu khu trục rải mìn]] [[Robert H. Smith (lớp tàu khu trục)|lớp ''Robert H. Smith'']] được [[Hải quân Hoa Kỳ]] chế tạo trong [[Chiến tranh Thế giới thứ hai]]. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt theo tên [[Chuẩn đô đốc]] [[Aaron Ward (sĩ quan hải quân)|Aaron Ward]] (1851–1918), người tham gia cuộc [[Chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ]].<ref name=DANFS>{{cite web | title=Aaron Ward III (DM-34) | url=http://www.history.navy.mil/research/histories/ship-histories/danfs/a/aaron-ward-dm-34-iii.html | website=Naval History and Heritage Command | accessdate=15 February 2020}}</ref> Nó bị hư hại nặng do bị máy bay [[Kamikaze]] đánh trúng trong [[Trận Okinawa]], nhưng vẫn sống sót và được kéo về Hoa Kỳ. Tuy nhiên nó không được sửa chữa, mà bị rút đăng bạ sau khi chiến tranh kết thúc và tháo dỡ năm [[1946]]. ''Aaron Ward'' được tặng thưởng danh hiệu [[Đơn vị Tuyên dương Tổng thống (Hoa Kỳ)|Đơn vị Tuyên dương Tổng thống]] cùng một [[Ngôi sao Chiến trận]] do thành tích phục vụ trong [[Thế Chiến II]].
 
== Thiết kế và chế tạo ==
''Aaron Ward'' được đặt lườn, như là tàu khu trục DD-773 thuộc [[Allen M. Sumner (lớp tàu khu trục)|lớp ''Allen M. Sumner'']], vào ngày [[12 tháng 12]] năm [[1943]] tại xưởng tàu của hãng [[Bethlehem Steel Corporation]] ở [[San Pedro, California]], và được hạ thủy vào ngày [[5 tháng 5]] năm [[1944]]; được đỡ đầu bởi bà G. H. Ratcliff. Nó được xếp lại lớp như một tàu khu trục rải mìn với ký hiệu lườn '''DM-34''' vào ngày [[19 tháng 7]] năm [[1944]] trước khi nhập biên chế vào ngày [[28 tháng 10]] năm [[1944]] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, [[Trung tá Hải quân]] [[William H. Sanders Jr.]].<ref name=DANFS/>
 
== Lịch sử hoạt động ==
''Aaron Ward'' tiếp tục được trang bị, và sau đó tiến hành chạy thử máy dọc theo bờ biển phía Nam [[California]] cho đến cuối [[tháng 1]] năm [[1945]]. Nó khởi hành từ [[San Pedro, California|San Pedro]] vào ngày [[9 tháng 2]] để hướng sang khu vực Tây Thái Bình Dương, đi đến [[Trân Châu Cảng]] vào ngày [[15 tháng 2]]. Nó tiếp tục huấn luyện tại vùng biển [[quần đảo Hawaii]], rồi được tiếp liệu và chất đạn dược trước khi khởi hành vào ngày [[5 tháng 3]] để gia nhập [[Đệ ngũ Hạm đội Hoa Kỳ|Đệ ngũ Hạm đội]] tại [[Ulithi]] thuộc [[quần đảo Caroline]] vào ngày [[16 tháng 3]]. Nó rời vũng biển đảo san hô ba ngày sau đó, cùng Lực lượng Đặc nhiệm 52 hướng sang khu vực [[quần đảo Ryūkyū]], [[Nhật Bản]].<ref name=DANFS/>
 
''Aaron Ward'', trong thành phần Hải đội Rải mìn, đi đến ngoài khơi [[Okinawa]] vào cuối ngày [[22 tháng 3]]. Sang ngày hôm sau, máy bay đối phương bắt đầu lãng vãng trong khu vực nhưng không tấn công. Sau đó đối phương xuất hiện đông hơn và tiếp cận gần, nhưng hỏa lực phòng không phối hợp từ các con tàu đã ngăn chặn những kẻ tấn công không đến đủ gần để gây nguy hiểm cho các tàu quét mìn. Trận chiến thực sự diễn ra vào ngày [[26 tháng 3]], khi tàu khu trục chị em {{USS|Adams|DM-27|3}} bắn rơi một kẻ tấn công.<ref name=DANFS/>
 
''Aaron Ward'' hỗ trợ cho hoạt động của các [[tàu quét mìn]] tại khu vực chung quanh [[Kerama Retto]] và Okinawa cho đến khi tiến hành [[Trận Okinawa|cuộc đổ bộ]]; trong giai đoạn này nó đã tiêu diệt ba máy bay đối phương. Vào đúng ngày D [[1 tháng 4]], khi diễn ra cuộc đổ bộ, nó hộ tống cho các tàu chiến chủ lực trong hoạt động hỗ trợ hải pháo xuống các bãi đổ bộ. Nhiệm vụ này kéo dài cho đến ngày [[4 tháng 4]], khi nó rời khu vực quần đảo Ryūkyū để đi đến [[quần đảo Mariana]], đi đến [[Saipan]] vào ngày [[10 tháng 4]], nhưng chuyển đến [[Guam]] cùng ngày hôm đó.<ref name=DANFS/>
 
Sau khi được sửa chữa những hư hỏng nhẹ, ''Aaron Ward'' lên đường quay trở lại khu vực Okinawa để tuần tra tại khu vực phụ cận Kerama Retto, thường xuyên chịu đựng các cuộc không kích. Vào ngày [[27 tháng 4]], nó bắn rơi một máy bay đối phương, và sang ngày hôm sau lại tiêu diệt được một chiếc và có thể đã bắn rơi thêm một chiếc nữa. Khi quay trở lại Kerama Retto để được tiếp liệu và tiếp nhiên liệu, một máy bay tấn công cảm tử [[Kamikaze]] đã đánh trúng [[tàu vận chuyển di tản]] {{USS|Pinkney|APH-2|3}}. ''Aaron Ward'' đã tiếp cận con tàu bị hư hại để giúp đỡ dập tắt các đám cháy, và giải cứu 12 người sống sót từ chiếc ''Pinkney''.<ref name=DANFS/>
 
Vào ngày [[30 tháng 4]], ''Aaron Ward'' trở ra khơi để đảm nhiệm vai trò cột mốc [[radar]] canh phòng tại Trạm số 10. Đêm hôm đó, nó đánh trả nhiều đợt không kích, nhưng trong phần lớn thời gian, thời tiết xấu đã ngăn trở hoạt động của không quân đối phương cho đến xế trưa ngày [[3 tháng 5]], khi thời tiết tốt hơn và hoạt động của đối phương cũng tăng dần. Khi trời sắp tối, radar con tàu bắt được tín hiệu máy bay đối phương ở khoảng cách {{convert|27|mi|km|0|abbr=on}}, và nó bước vào báo động trực chiến. Hai máy bay đối phương tách khỏi đội hình để hướng đến và tấn công nhắm vào ''Aaron Ward''. Con tàu nổ súng nhắm vào chiếc đi đầu ở khoảng cách {{convert|7000|yd|m|-3|abbr=on}}, bắt đầu bắn trúng khi khoảng cách rút ngắn xuống còn {{convert|4000|yd|m|-3|abbr=on}}. Đối thủ bắt đầu đâm bổ tự sát nhưng bị bắn rơi xuống biển cách đuôi tàu {{convert|100|yd|m|-2|abbr=on}} bên mạn phải.<ref name=Smith>{{Harvnb|Smith|2014|pp=113–114}}</ref> Chiếc máy bay thứ hai tiếp tục tấn công ngay sau đó; nó bị hỏa lực phòng không nhắm đến ở khoảng cách {{convert|8000|yd|m|-3|abbr=on}}, và cuối cùng bị bắn rơi khi còn cách con tàu {{convert|1200|yd|m|-2|abbr=on}}.<ref name=Smith>{{Harvnb|Smith|2014|pp=113–114}}</ref><ref name=DANFS/>
 
Vào lúc đó một kẻ tấn công thứ ba kiên quyết hơn xuất hiện và đâm bổ xuống phía đuôi của ''Aaron Ward'', và cho dù liên tục bị hỏa lực phòng không của con tàu bắn trúng, nó tiếp tục lao vào con tàu và thả bom trước khi đâm trúng [[cấu trúc thượng tầng]] của ''Aaron Ward''. Quả bom xuyên qua lườn tàu bên dưới mực nước và kích nổ tại phòng động cơ phía sau,<ref name=Smith /> gây ngập nước phòng động cơ và phòng nồi hơi liền kề, làm vỡ các thùng nhiên liệu và phát sinh các đám cháy do rò rỉ nhiên liệu, cũng như làm mất kiểm soát bánh lái từ cầu tàu. Bánh lái bị kẹt ở một góc gắt sang trái, nên con tàu di chuyển xoay trong một vòng tròn hẹp và tốc độ giảm còn {{convert|20|kn|km/h|0}}. Bên trên cấu trúc thượng tầng, chiếc máy bay gây ra đám cháy và hư hại cho phần sau cấu trúc thượng tầng, và tháp pháo 53 bị mất điện và liên lạc.<ref name=Smith /> Nhiều thủy thủ tử trận hay bị thương.<ref name=Smith/><ref name=DANFS/>
 
Trong khoảng 20 phút, không còn máy bay đối phương nào xâm nhập được hàng rào phòng không. Các đội kiểm soát hư hỏng nỗ lực dập lửa và sửa chữa những hư hại, phóng bỏ đạn dược có nguy cơ bị kích nổ và chăm sóc những người bị thương. Việc điều khiển bánh lái được chuyển cho trạm chỉ huy dự bị phía sau, tuy nhiên con tàu không thể cơ động hoàn toàn tự do từ đó cho đến hết trận chiến. Đến khoảng 18 giờ 40 phút, đối phương lại tung ra một đợt không kích lớn nhắm vào trạm canh phòng radar. Tàu khu trục {{USS|Little|DD-803|3}} liên tiếp bị năm máy bay Kamikaze đánh trúng và bị đắm; và đang khi đi đến trợ giúp cho ''Aaron Ward'' và ''Little'', tàu đổ bộ {{USS|LSM(R)-195}} bị một máy bay Kamikaze đánh trúng và đắm do kích nổ đạn dược nó mang theo; xuồng đổ bộ {{USS|LCS(L)-25}} bị mất cột ăn-ten do máy bay đối phương sượt qua. Lúc trước 19 giờ 00, một máy bay đối phương lại chọn ''Aaron Ward'' làm mục tiêu, bắt đầu bổ nhào từ khoảng cách {{convert|8000|yd|m|-3}}. Tuy nhiên chiếc tàu khu trục rải mìn đã sớm bắn trúng đối thủ khiến nó đâm xuống biển khi còn cách đến {{convert|2000|yd|m|-3}}. Một máy bay đối phương khác cũng bị hàng rào hỏa lực phòng không bắn rơi.<ref name=DANFS/>
 
Tuy nhiên thử thách dành cho ''Aaron Ward'' vẫn chưa kết thúc, khi lại có thêm hai máy bay Kamikaze đối phương tiếp cận nó từ phía mũi bên mạn trái. Bị máy bay tiêm kích tuần tra chiến đấu trên không ngăn chặn, một chiếc vẫn thoát ra được và bắt đầu bổ nhào, nhắm vào cầu tàu của ''Aaron Ward''. Tuy nhiên, lần này hỏa lực phòng không dày đặc của con tàu khiến chiếc máy bay bị chệch hướng về phía đuôi tàu, đâm sượt qua ống khói và cột ăn-ten phía đuôi tàu trước khi đâm xuống nước bên mạn phải.<ref name=Smith /> Liền ngay sau đó, một máy bay đối phương khác hướng đến chiếc tàu khu trục rải mìn từ bên mạn trái; và cho dù bị hỏa lực phòng không bắn trúng nó vẫn tiếp tục lao xuống và thả bom trước khi đâm trúng sàn chính.<ref name=Smith /> Quả bom nổ dưới nước cạnh mạn trái con tàu, tung một cơn mưa mảnh đạn trên sàn tàu và làm thủng một lổ lớn cạnh phòng nồi hơi phía trước. Hậu quả là con tàu mất toàn bộ động lực và chết đứng giữa biển. Vào lúc đó, một máy bay đối phương khác không bị phát hiện lại tiếp tục đâm xuống phía sau tàu, gây thêm nhiều đám cháy, làm thêm nhiều thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng hay bị thương.<ref name=Smith/><ref name=DANFS/>
 
== Phần thưởng ==
''Aaron Ward'' được tặng thưởng danh hiệu [[Đơn vị Tuyên dương Tổng thống (Hoa Kỳ)|Đơn vị Tuyên dương Tổng thống]] cùng một [[Ngôi sao Chiến trận]] do thành tích phục vụ trong [[Thế Chiến II]].<ref name=DANFS/>
 
== Tham khảo ==
Dòng 95:
* {{chú thích sách | last=Silverstone | first=Paul H | title=U.S. Warships of World War II | publisher=Ian Allan | year=1965 | isbn=0-87021-773-9 | ref=Harv}}
* {{chú thích sách | last=Smith | first=Peter C | title=Kamikaze To Die For The Emperor | year=2014 | publisher=Pen & Sword Books Ltd | location=Barnsley, UK | isbn=9781781593134 | ref=Harv}}
* {{cite DANFS | author=[[Naval Historical Center]] | title=Aaron Ward III (DM-34) | url=http://www.history.navy.mil/research/histories/ship-histories/danfs/a/aaron-ward-dm-34-iii.html | accessdate=2019-10-09}}
 
== Liên kết ngoài ==