Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Augusta (CA-31)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
cite DANFS
Dòng 26:
|Ship out of service=[[16 tháng 7]] năm [[1946]]
|Ship renamed=
|Ship reclassified=CA-31, [[1 tháng 7]] năm [[1931]]
|Ship struck=[[1 tháng 3]] năm [[1959]]
|Ship nickname="Augie Maru"
Dòng 56:
|}
 
'''USS ''Augusta'' (CL-31/CA-31)''' là một [[tàu tuần dương hạng nặng]] của [[Hải quân Hoa Kỳ]], là chiếc cuối cùng của [[Northampton (lớp tàu tuần dương)|lớp ''Northampton'']], và là chiếc tàu chiến đầuthứ tiên của Hải quân Mỹ được đặt [[USS Augusta|cái tên này]], nhưng là chiếc thứ ba được đặt theo tên của thành phố [[Augusta, Georgia|Augusta]] tại [[Georgia]].<ref>Căn cứ theogroup=Note>Theo [[:en:Dictionary of American Naval Fighting Ships]], tên của chiếc USS ''Augusta'' thứ ba (SP-946) không rõ nguồn gốc; còn hai chiếc USS ''Augusta'' thứ năm (SSN-710) và thứ sáu (LCS-34) được đặt theo tên thành phố [[Augusta, GeorgiaMaine]].</ref><ref chứname=DANFS>{{cite khôngweb phải là| [[title=Augusta, Maine]]IV (CL-31) 1931-1959 | url=https://www.history.navy.mil/research/histories/ship-histories/danfs/a/augusta-iv.html | website=Naval History and Heritage Command | accessdate=19 February 2020}}</ref> Được đưa vào hoạt động năm [[1931]], nó được ghi nhận đã phục vụ tại [[Đại Tây Dương]] và [[Địa Trung Hải]] trong suốt [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Chiến tranh Thế giới thứ hai]], cũng như được cả các Tổng thống [[Franklin D. Roosevelt]] và [[Harry S. Truman]] sử dụng trong nhiều chuyến đi trong hoàn cảnh thời chiến, mà đáng kể nhất là [[Hiến chương Đại Tây Dương|Hội nghị Newfoundland]], trước khi được cho ngừng hoạt động vào năm [[1946]] và được tháo dỡ vào năm [[1960]].
 
== Thiết kế và chế tạo ==
Vốn vẫn bị hạn chế về tải trọng và cỡ pháo bởi [[Hiệp ước Hải quân Washington]], nhưng mang nhiều đặc tính cải tiến so với [[Pensacola (lớp tàu tuần dương)|lớp ''Pensacola'']] dẫn trước, lớp ''Northampton'' mang chín khẩu 203&nbsp;mm (8 inch) trên ba tháp pháo ba nòng, một cách sắp xếp tối ưu được tiếp nối bởi mọi tàu tuần dương hạng nặng Hoa Kỳ sau này.
 
''Augusta'' được đặt lườn vào ngày [[2 tháng 7]] năm [[1928]] bởi hãng [[Newport News Shipbuilding and Dry Dock Co.]] tại [[Newport News]], [[Virginia]]. Nó được hạ thủy vào ngày [[1 tháng 2]] năm [[1930]], được đỡ đầu bởi Cô [[Evelyn McDaniel]]; và được đưa ra hoạt động tại [[xưởng hải quân Norfolk]], [[Portsmouth]], [[Virginia]] vào ngày [[30 tháng 1]] năm [[1931]] dưới quyền chỉ huy của ThuyềnHạm trưởng, [[Đại tá Hải quân]] [[James O. Richardson]]. Ban đầu mang ký hiệu lườn là '''CL-31''', ''Augusta'' được xếp lớp lại là '''CA-31''' vào ngày [[1 tháng 7]] năm [[1931]] cho phù hợp với những điều khoản của [[Hiệp ước Hải quân London]] năm [[1930]].<ref name=DANFS/>
 
== Lịch sử hoạt động ==
=== Những năm giữa hai cuộc thế chiến ===
Hư hại xảy ra cho một trong những turbine của nó đã rút ngắn chuyến đi chạy thử máy ban đầu, nhưng ''Augusta'' tiếp tục tiến hành các hoạt động huấn luyện ban đầu trong một chuyến đi đến [[Colon, Panama]] và quay trở lại, trước khi chiếc tàu tuần dương mới được giao vai trò [[soái hạm]] cho Tư lệnh Lực lượng Tuần tiễu, [[Phó Đô đốc]] [[Arthur L. Willard]], vào ngày [[21 tháng 5]] năm [[1931]]. Trong mùa Hè năm [[1931]], nó hoạt động cùng với các tàu chiến khác của Lực lượng Tuần tiễu, tiến hành các cuộc thực hành chiến thuật ngoài khơi bờ biển [[New England]]. Vào [[tháng tám|tháng 8]] năm [[1931]] nó được xếp lại lớp thành một tàu tuần dương hạng nặng với ký hiệu lườn '''CA-31'''. Sang [[tháng chín|tháng 9]], ''Augusta'' di chuyển về phía Nam đến [[vịnh Chesapeake]], nơi nó cùng các tàu chiến khác tiến hành thực hành tác xạ mùa Thu thường lệ cho đến giữa [[tháng mười một|tháng 11]], khi các tàu tuần dương rút về các cảng nhà của chúng. ''Augusta'' đi vào [[xưởng hải quân Norfolk]] để đại tu vào lúc đó.<ref name=DANFS/>
 
Vào đầu năm [[1932]], nó cùng các tàu tuần dương khác của Lực lượng Tuần tiễu tái tập trung tại [[Hampton Roads]], nơi chúng khởi hành vào ngày [[8 tháng 1]] hướng đến [[vịnh Guantánamo]] thuộc [[Cuba]]. ''Augusta'' tiến hành các cuộc huấn luyện cùng với Lực lượng Tuần tiễu tại khu vực lân cận vịnh Guantánamo cho đến ngày [[18 tháng 2]], khi lực lượng khởi hành hướng đến [[kênh đào Panama]] trên đường đi đến khu vực Đông Thái Bình Dương tham gia tập trận [[Vấn đề Hạm đội XIII]]. Nó đi đến [[San Pedro]], [[California]] vào ngày [[7 tháng 3]] nhưng lại trở ra biển khơi ba ngày sau đó tiến hành tập trận. Trong các cuộc cơ động, ''Augusta'' cùng với các tàu chiến đồng đội của Lực lượng Tuần tiễu đã "đối đầu" với Lực lượng Thiết giáp hạm, để bảo vệ ba "[[đảo san hô]]" giả lập ở các điểm biệt lập cách xa nhau tại vùng Bờ Tây. Các cuộc tập trận đã cung cấp cho hạm đội việc huấn luyện tuần tiễu chiến lược và một cơ hội để thực hành phòng thủ và tấn công một [[đoàn tàu vận tải]].<ref name=DANFS/>
 
Cuộc tập trận hạm đội kết thúc vào ngày [[18 tháng 3]], nhưng ''Augusta'' cùng với phần còn lại của Lực lượng Tuần tiễu không quay trở lại khu vực Đại Tây Dương như những lần trước đây. Trong một hành động dường như báo trước quyết định của [[Tổng thống Hoa Kỳ|Tổng thống]] [[Franklin D. Roosevelt|Franklin Roosevelt]] giữ Hạm đội ở lại [[Trân Châu Cảng]] vào năm [[1940]] sau cuộc tập trận [[Vấn đề Hạm đội XXI]], [[Nội các Hoover]] giữ Hạm đội tập trung tại khu vực Bờ Tây trong suốt năm [[1932]] với một hy vọng hão huyền rằng có thể kiềm chế cuộc xâm lấn của [[Nhật Bản]] tại [[Trung Quốc]]. Trong thực tế, Lực lượng Tuần tiễu vẫn tiếp tục ở tại Bờ Tây trong gần một năm sau đó cho đến lúc tiến hành cuộc tập trận [[Vấn đề Hạm đội XIV]] vào [[tháng hai|tháng 2]] năm [[1933]], để rồi sau đó [[Nội các Franklin D. Roosevelt|Nội các Roosevelt]] lên nắm quyền vào [[tháng ba|tháng 3]], giữ chúng ở lại đây vô thời hạn. Vì vậy, ''Augusta'' tiếp tục hoạt động tại khu vực Đông Thái Bình Dương cho đến khi được thay phiên trong vai trò soái hạm của Lực lượng Tuần tiễu vào cuối [[tháng mười|tháng 10]] năm [[1933]]. Chiếc tàu tuần dương rời [[Xưởng hải quân Puget Sound]], [[washington (tiểu bang)|bang Washington]], lên đường hướng sang Trung Quốc vào ngày [[20 tháng 10]].<ref name=DANFS/>
 
=== Hạm đội Á Châu ===
Đi dọc theo con đường "Vòng Cực Lớn" Bắc Thái Bình Dương từ [[Seattle]] đến [[Thượng Hải]], ''Augusta'' thả neo trên [[sông Hoàng Phố]] tại Thượng Hải vào sáng ngày [[9 tháng 11]] năm [[1933]]. Trưa hôm đó, [[Đô đốc]] [[Frank B. Upham]], Tổng tư lệnh [[Hạm đội Á Châu Hoa Kỳ|Hạm đội Á Châu]], đặt cờ hiệu của mình trên chiếc tàu tuần dương vừa mới đến, trong khi soái hạm cũ của ông, chiếc tàu tuần dương chị em ''[[USS Houston (CA-30)|Houston]]'', lên đường quay trở về Hoa Kỳ. Không lâu sau đó, ''Augusta'' khởi hành từ Thượng Hải hướng về phía Nam vào [[tháng mười hai|tháng 12]] năm [[1933]], và trong những tháng tiếp theo đã hoạt động tại [[Philippines]], xen kẻ các đợt huấn luyện với các lần đại tu hàng năm tại [[Cavite]] và [[Olongapo]].<ref name=DANFS/>
 
Mùa Xuân năm [[1944]], ''Augusta'' ở lại vùng biển Trung Quốc biểu dương lực lượng, và sau đó lên đường hướng đến [[Yokohama]], Nhật Bản, đến nơi vào ngày [[4 tháng 6]]. Lúc 7 giờ 30 phút sáng hôm sau, Đô đốc Upham rời tàu tham dự lễ quốc tang của [[Thủy sư Đô đốc]] [[Tōgō Heihachirō|Togo Heihachiro]]; ''Augusta'' bắn 19 phát đạn chào lúc 8 giờ 30 phút để vinh danh vị anh hùng hải quân Nhật Bản. Rời Yokohama cùng Đô đốc Upham vào ngày [[11 tháng 6]], chiếc tàu tuần dương ghé thăm [[Kobe]] từ ngày [[12 tháng 6|12]] đến ngày [[15 tháng 6]] trước khi lên đường hướng về [[Thanh Đảo]], đến nơi vào ngày [[17 tháng 6]], lên đường vào ngày [[10 tháng 9]] ghé qua [[Tần Hoàng Đảo]] ngày [[24 tháng 9]], [[Yên Đài]] vào ngày [[25 tháng 9]], và cuối cùng đến Thượng Hải vào ngày [[26 tháng 9]].<ref name=DANFS/>
 
''Augusta'' tiếp tục ở lại vùng biển Trung Quốc cho đến khi rời Thượng Hải vào ngày [[5 tháng 10]] năm [[1934]] hướng đến [[Guam]], dưới quyền chỉ huy của Đại tá Hải quân [[Chester W. Nimitz]], đến nơi vào ngày [[10 tháng 10]]. Lại lên đường ngay ngày hôm sau, nó lần đầu tiên đi đến vùng biển [[Úc|Australia]], đến [[Sydney]] vào ngày [[20 tháng 10]]. Tổng số thủy thủ đoàn vào lúc này là 824 người, bao gồm 64 sĩ quan và 760 thủy thủ. Nó ở lại đây trong một tuần lễ, trong khi Đô đốc Upham viếng thăm [[Canberra]], thủ đô Australia, trong các ngày [[25 tháng 10|25]] và [[26 tháng 10]]. Khi Tư lệnh Hạm đội Á Châu quay trở lại tàu vào ngày [[26 tháng 10]], ''Augusta'' rời Sydney vào ngày hôm sau hướng đến [[Melbourne]], đến nơi vào ngày [[29 tháng 10]]. Nó ở lại đây tham gia các lễ hội mừng kỷ niệm một trăm năm thành phố này cho đến ngày [[13 tháng 11]], khi nó lên đường hướng đến [[Fremantle, Western Australia|Fremantle]] và [[Perth, Tây Úc|Perth]]. Vào ngày [[20 tháng 11]] nó lên đường hướng sang [[Đông Ấn Hà Lan|Đông Ấn thuộc Hà Lan]].<ref name=DANFS/>
 
''Augusta'' đến [[Jakarta|Batavia]] (ngày nay là Jakarta) vào ngày [[25 tháng 11]] và ở lại đây cho đến ngày [[3 tháng 12]], khi nó khởi hành đi [[Bali]], đi đến cảng[[Lauban Amok]] vào ngày [[5 tháng 12]]. Lại lên đường vào ngày [[8 tháng 12]], ''Augusta'' ghé qua [[Sandakan]] từ ngày [[14 tháng 12|14]] đến ngày [[16 tháng 12]], [[Zamboanga]] từ ngày [[17 tháng 12|17]] đến ngày [[19 tháng 12]], và [[Iloilo]] từ ngày [[20 tháng 12|20]] đến ngày [[21 tháng 12]] trước khi đến [[Manila]] vào ngày [[22 tháng 12]].<ref name=DANFS/>
 
Chiếc tàu tuần dương hạng nặng tiếp tục ở lại quần đảo Philippine, thực hiện công việc đại tu cần thiết hàng năm tại Cavite và vào ụ tàu ở Olongapo, trong ụ nổi [[USS Dewey (YFD-1)|''Dewey'' (YFD-1)]], trước khi tiếp tục đón nhận Đô đốc Upham và lên đường vào ngày [[15 tháng 3]] năm [[1935]] hướng đến [[Hồng Kông|Hong Kong]]. Đến nơi vào ngày [[16 tháng 3]], ''Augusta'' ở lại đây cho đến ngày [[25 tháng 3]] trong khi vị Tư lệnh Hạm đội Á Châu chuyển sang chiếc ''[[USS Isabel (PY-10)|Isabel]]'' cho một chuyến đi đến [[Quảng Châu]] từ ngày [[17 tháng 3|17]] đến ngày [[20 tháng 3]] năm [[1935]] (chiếc tàu tuần dương không thể đi ngược dòng [[châu Giang (định hướng)|sông Châu Giang]] đến Quảng Châu). ''Augusta'' khởi hành vào ngày [[25 tháng 3]] đi đến [[Hạ Môn]] và ở lại đây từ ngày [[26 tháng 3|26]] đến ngày [[29 tháng 3]], trước khi tiếp tục lên đường hướng đến Thượng Hải, và đi đến thành phố cảng này vào ngày cuối cùng của [[tháng ba|tháng 3]].<ref name=DANFS/>
 
''Augusta'' tiếp tục ở lại Thượng Hải cho đến ngày [[30 tháng 4]], khi nó lên đường thực hiện chuyến viếng thăm Nhật Bản thứ hai, đi đến Yokohama vào ngày [[3 tháng 5]] năm [[1935]]. Con tàu ở lại đây trong hai tuần trước khi khởi hành đi Kobe, và đến nơi vào ngày [[18 tháng 5]] cho một chặng dừng kéo dài một tuần. ''Augusta'' lên đường đi Trung Quốc vào ngày [[25 tháng 5]], và đến [[Nam Kinh]], thủ đô Trung Quốc lúc đó, vào ngày [[29 tháng 5]]. Chiếc soái hạm tiếp tục ở lại Nam Kinh cho đến ngày [[4 tháng 6]], rồi lên đường đi Thượng Hải, đến nơi vào ngày hôm sau. "Augie Maru", như thủy thủ đoàn đặt tên lóng một cách trìu mến cho nó, ở lại Thượng Hải cho đến ngày [[27 tháng 6]] rồi hướng lên phía Bắc Trung Quốc, đến Thanh Đảo vào ngày [[29 tháng 6]]. Nó tiếp tục ở lại đây, tiến hành huấn luyện và thực tập tác xạ cho đến hết mùa Hè năm đó.<ref name=DANFS/>
 
''Augusta'' rời Thanh Đảo vào ngày [[30 tháng 9]] hướng đến Thượng Hải, đến nơi vào ngày [[1 tháng 10]], nơi mà bốn ngày sau đó, Đô đốc [[Orin G. Murfin]] thay thế Đô đốc Upham làm Tổng tư lệnh Hạm đội Á Châu. Vào ngày [[8 tháng 10]], với vị Tổng tư lệnh mới trên tàu, ''Augusta'' rời Thượng Hải hướng về phía Nam. Đô đốc Murfin chuyển sang chiếc ''Isabel'' cho một chuyến viếng thăm [[Bangkok]] từ ngày [[15 tháng 10|15]] đến ngày [[22 tháng 10]], rồi quay trở lại chiếc tàu tuần dương hạng nặng để viếng thăm [[Singapore]] từ ngày [[24 tháng 10|24]] đến ngày [[30 tháng 10]]. Tiếp tục ghé qua [[Pontianak (thành phố)|Pontianak]] từ ngày [[31 tháng 10]] đến ngày [[1 tháng 11]] và [[Jesselton]] thuộc [[Borneo]] từ ngày [[3 tháng 11|3]] đến ngày [[5 tháng 11]], "Augie Maru" viếng thăm các cảng phía Nam Philippine Zamboanga từ ngày [[6 tháng 11|6]] đến ngày [[8 tháng 11]] và Iloilo từ ngày [[9 tháng 11|9]] đến ngày [[10 tháng 11]] trước khi quay trở về Manila vào ngày [[11 tháng 11]] năm [[1935]].<ref name=DANFS/>
 
Trong khi ''Augusta'' trải qua đợt đại tu hàng năm tại Cavite và Olongapo, Đô đốc Murfin đặt cờ hiệu của mình trên chiếc ''Isabel'' từ ngày [[14 tháng 12]] năm [[1935]] đến ngày [[27 tháng 2]] năm [[1936]]. Không lâu sau, cùng với vị Tư lệnh trên tàu, nó lên đường ghé thăm một loạt các cảng và địa điểm Philippine: Catbalogan, Cebu, Tacloban, Davao, Dumanquilas, Zamboanga, vịnh Tutu, Jolo và Tawi Tawi trước khi quay trở về Manila vào ngày [[29 tháng 3]].<ref name=DANFS/>
 
Vào ngày [[31 tháng 3]] ''Augusta'' lên đường đi Hong Kong, đến nơi vào ngày [[2 tháng 4]], và ở lại đó cho đến ngày [[11 tháng 4]]. Trong thời gian này, Đô đốc Murfin chuyển sang ''Isabel'' cho chuyến đi ngược dòng sông Châu Giang đến Quảng Châu từ ngày [[6 tháng 4|6]] đến ngày [[8 tháng 4]], trước khi quay trở lại con tàu tuần dương tiếp tục chuyến đi dọc theo bờ biển Trung Quốc. Ghé thăm [[Hạ Môn]] trong các ngày [[12 tháng 4|12]] và [[13 tháng 4]], ''Augusta'' dừng chân một chặng ngắn tại [[Wusong|Woosung]] vào ngày [[16 tháng 4]] trước khi ngược dòng [[trường Giang|sông Dương Tử]], đến Nam Kinh ngày hôm sau. Trong khi ''Augusta'' xuôi dòng Dương Tử quay trở lại sông Hoàng Phố và Thượng Hải, Đô đốc Murfin tiếp tục ngược dòng Dương Tử đến Hán khẩu trên chiếc ''Isabel'', bay đến Nghi Xương, rồi lên chiếc [[USS Panay (PR-5)|USS ''Panay'']] để cuối cùng quay trở lại Hán khẩu và Thượng Hải trên chiếc ''Isabel'', và trở lên ''Augusta'' vào ngày [[4 tháng 5]].<ref name=DANFS/>
 
''Augusta'' khởi hành đi Nhật Bản vào ngày [[21 tháng 5]], thực hiện chuyến viếng thăm thứ ba đến đất nước này, và đã đến [[Yokohama]] vào ngày [[25 tháng 5]]. Chiếc soái hạm của Hạm đội Á Châu ở lại cảng này cho đến ngày [[5 tháng 6]], khi nó khởi hành đi [[Kobe]], đến nơi vào ngày hôm sau. Nó tiếp tục ở lại vùng biển Nhật Bản cho đến ngày [[13 tháng 6]], khi nó khởi hành đi Thanh Đảo, đến nơi vào ngày [[16 tháng 6]]. Nó tiến hành các hoạt động thực tập và huấn luyện tại đây trong hai tháng, rồi lên đường đi Yên Đài thuộc phía Bắc Trung Quốc vào ngày [[17 tháng 8]]. Đến nơi cùng ngày hôm đó, nó rời Yên Đài vào ngày [[21 tháng 8]] quay trở lại Thanh Đảo và ở lại đây cho đến giữa [[tháng chín|tháng 9]].<ref name=DANFS/>
 
Lên đường vào ngày [[14 tháng 9]] hướng đến Tần Hoàng Đảo, thành phố cảng nằm dưới chân [[Vạn Lý Trường Thành|Vạn lý Trường thành]], ''Augusta'' đến nơi vào ngày [[15 tháng 9]] khi Đô đốc Murfin lên bờ viếng thăm [[Bắc Bình]] (nay là [[Bắc Kinh]]). Sau khi thị sát đơn vị vệ binh Thủy quân Lục chiến tại thành phố, tư lệnh Hạm đội Á Châu quay trở lại Tần Hoàng Đảo bằng tàu hỏa và trở lại soái hạm vào ngày [[25 tháng 9]]. Lên đường vào ngày [[28 tháng 9]], ''Augusta'' ghé qua Yên Đài cùng ngày hôm đó và đến Thanh Đảo ngày hôm sau, [[29 tháng 9]] năm [[1936]]. Nó lên đường ngay ngày hôm đó và đến Thượng Hải vào ngày [[1 tháng 10]]. Đến ngày [[30 tháng 10]], Đô đốc Murfin bàn giao lại chức vụ tư lệnh Hạm đội Á Châu cho Đô đốc [[Harry E. Yarnell]]. Không lâu sau đó, với vị tư lệnh mới trên tàu, ''Augusta'' rời sông Hoàng Phố vào ngày [[3 tháng 11]] năm [[1936]] trong chuyến đi thường lệ hàng năm về phía Nam.<ref name=DANFS/>
 
Một lần nữa ''Augusta'' viếng thăm một loạt các cảng quan trọng tại Đông Nam Á: Hong Kong từ ngày [[5 tháng 11|5]] đến ngày [[12 tháng 11]], Singapore từ ngày [[16 tháng 11|16]] đến ngày [[23 tháng 11]], Batavia từ ngày [[25 tháng 11]] đến ngày [[1 tháng 12]], Bali từ ngày [[4 tháng 12|4]] đến ngày [[7 tháng 12]], Makassar từ ngày [[8 tháng 12|8]] đến ngày [[12 tháng 12]], Tawi Tawi và vịnh Tutu trong ngày [[14 tháng 12]], vịnh Dumanquilas trong ngày [[15 tháng 12]], Zamboanga từ ngày [[15 tháng 12|15]] đến ngày [[16 tháng 12]] và Cebu vào ngày [[17 tháng 12]] trước khi quay về Manila vào ngày [[19 tháng 12]]. Đô đốc Yarnell chuyển cờ hiệu của mình sang chiếc ''Isabel'' vào ngày [[2 tháng 1]] năm [[1937]], khi ''Augusta'' đi vào Xưởng hải quân Cavite để sửa chữa và tái trang bị, bao gồm việc bổ sung vỏ giáp chống mảnh đạn chung quanh các vị trí súng máy ở sàn trước và cột ăn-ten. Tư lệnh Hạm đội Á Châu sử dụng ''Isabel'' như soái hạm cho đến [[tháng ba|tháng 3]], trước khi quay trở lại ''Augusta'' tại Manila vào ngày [[29 tháng 3]] năm [[1937]].<ref name=DANFS/>
 
''Augusta'' tiếp tục ở lại vùng biển Philippine trong nhiều ngày tiếp theo, tại Manila từ ngày [[29 tháng 3]] đến ngày [[2 tháng 4]], tại Malampaya trong các ngày [[3 tháng 4|3]] và [[4 tháng 4]] trước khi quay về Manila vào ngày [[5 tháng 4]]. Ghé lướt qua Port San Pio Quinto trong các ngày [[7 tháng 4|7]] và [[8 tháng 4]], chiếc soái hạm của Hạm đội Á Châu lên đường đi Hong Kong, đi đến vùng thuộc địa của Đế quốc Anh này vào ngày [[9 tháng 4]]. Đô đốc Yarnell chuyển cờ hiệu của mình sang chiếc ''Isabel'' cho hành trình đi Quảng Châu, và quay trở lại ''Augusta'' vào ngày [[13 tháng 4]] tiếp tục chuyến đi vào ngày [[18 tháng 4]] để hướng đến Sán Đầu. Nó viếng thăm thành phố cảng này vào ngày hôm sau, rồi Hạ Môn vào ngày hôm sau nữa trước khi Tư lệnh Hạm đội Á Châu chuyển cờ hiệu của mình sang chiếc ''Isabel'' cho một chuyến đi ngắn đến Pagoda từ ngày [[21 tháng 4|21]] đến ngày [[22 tháng 4]], quay trở lại chiếc tàu tuần dương vào ngày [[23 tháng 4]].<ref name=DANFS/>
 
''Augusta'' ngược dòng sông Hoàng Phố vào ngày [[24 tháng 4]] để đi đến Thượng Hải, và thả neo tại thành phố này cho đến ngày [[5 tháng 5]], khi nó lên đường đi Nam Kinh. Nó ở lại thành phố trên sông Dương Tử này từ ngày [[6 tháng 5|6]] đến ngày [[9 tháng 5]], khi nó khởi hành tiếp tục ngược dòng sông Dương Tử để đi [[Cửu Giang]]. Đô đốc Yarnell lại chuyển cờ hiệu của mình sang chiếc ''Isabel'' cho hành trình đi [[Hán khẩuKhẩu]] và [[Nghi Xương]], rồi đến ngày [[22 tháng 5]] tiếp tục chuyển sang chiếc ''Panay'' để viếng thăm [[Trùng Khánh]]. Ông quay trở lại Nghi Xương trên chiếc [[pháo hạm sông]] [[USS Wake (PR-3)|''Guam'']], nơi ông chuyển sang ''Isabel'' cho hành trình quay trở lại Hán khẩu và Nam Kinh. Cuối cùng Tư lệnh Hạm đội Á Châu đặt cờ hiệu của mình trên ''Augusta'' tại Thượng Hải vào ngày [[2 tháng 6]].<ref name=DANFS/>
 
Rời Thượng Hải vào ngày [[7 tháng 6]], ''Augusta'' đi lên phía Bắc Trung Quốc, đi đến [[Tần Hoàng Đảo]] vào ngày [[9 tháng 6]], nơi Đô đốc Yarnell và ban tham mưu của ông rời tàu đáp tàu hỏa đi [[Bắc Kinh|Bắc Bình]] (nay là [[Bắc Kinh]]), nơi Tư lệnh Hạm đội Á Châu thực hiện đợt thanh tra hàng năm. Ông quay trở lại chiếc tàu tuần dương tại Tần Hoàng Đảo vào ngày [[22 tháng 6]], và con tàu đã viếng thăm Yên Đài trong các ngày [[24 tháng 6|24]] và [[25 tháng 6]] trước khi đi đến Thanh Đảo vào ngày [[26 tháng 6]]. Nó tiến hành những hoạt động thường lệ từ cảng Thanh Đảo trong bối cảnh tình hình tại khu vực đang xấu đi nhanh chóng, chủ yếu do mối quan hệ giữa Trung Quốc và [[Nhật Bản]] ngày càng căng thẳng. Sau khi chiếm đóng miền Đông Bắc Trung Quốc ([[Mãn Châu]]) năm [[1931]], Nhật Bản tiếp tục có những yêu sách khiến [[Tưởng Giới Thạch]], nhà lãnh đạo Trung Quốc vào lúc đó, buộc phải áp dụng những biện pháp để tăng cường vị thế quân sự.<ref name=DANFS/>
 
Trong đêm [[7 tháng 7]], [[1937]], các đơn vị Trung Quốc và Nhật Bản đã nổ súng vào nhau tại khu vực [[cầu Lư Câu]] tại ngoại thành Bắc Kinh. [[Sự kiện Lư Câu Kiều]] nhanh chóng leo thang trở thành chiến sự tại miền Bắc Trung Quốc, khi lực lượng Nhật Bản chiếm đóng Bắc Kinh vào cuối [[tháng 7]] do sự kháng cự yếu ớt của quân đội [[Trung Hoa dân quốc]]. Trong bối cảnh như thế, Đô đốc Yarnell cân nhắc việc hủy bỏ chuyến viếng thăm hữu nghị đến cảng [[Vladivostok]], [[Liên Xô]], nhưng ông được lệnh xúc tiến chuyến viếng thăm. Tiếp tục cảnh giác trước tình hình tại Trung Quốc, Tư lệnh Hạm đội Á Châu cùng ''Augusta'' khởi hành vào ngày [[24 tháng 7]] cho chuyến đi sang Vladivostok, với bốn tàu khu trục tháp tùng. Băng qua rìa một cơn [[bão]], đoàn tàu đi đến cảng Xô Viết bốn ngày sau đó và ở lại đây cho đến ngày [[1 tháng 8]]. Đây là lần đầu tiên một tàu hải quân Hoa Kỳ viếng thăm cảng này kể từ khi đóng cửa trạm vô tuyến tại đây vào năm [[1922]]. Đô đốc Yarnell sau này nhớ lại: “Chuyến viếng thăm đã gây ấn tượng tốt cho giới chức và nhân dân địa phương; các sĩ quan và thủy thủ được tiếp đón nồng hậu.”<ref name=DANFS/>
 
Rời Vladivostok vào ngày [[1 tháng 8]], đoàn tàu quay trở lại vùng biển Trung Quốc, khi các tàu khu trục quay trở lại căn cứ của chúng ở Yên Đài, trong khi ''Augusta'' đi đến Thanh Đảo, nơi Đô đốc Yarnell theo dõi những tin tức tình báo về tình hình tại phía Bắc Trung Quốc, khi một sự kiện đang xảy ra tại Thượng Hải. Phía Trung Quốc gây sức ép lên một đơn vị nhỏ Lực lượng Đổ bộ Đặc biệt Hải quân (Thủy quân Lục chiến) Nhật Bản tại Thượng Hải, buộc phía Nhật Bản phải tập trung các đơn vị hải quân trên [[sông Hoàng Phố]] dẫn đến cảng này. Xung đột xảy ra vài ngày sau đó khi một trung úy Nhật Bản và người lái xe bị giết gần một sân bay Trung Quốc vào ngày [[9 tháng 8]]. Xem xét đến quyền lợi của Hoa Kỳ tại Tô giới Quốc tế Thượng Hải, Đô đốc Yarnell cho rằng tốt nhất nên di chuyển đến thành phố này và đặt căn cứ của ông tại đây. Con tàu khởi hành vào ngày [[13 tháng 8]].<ref name=DANFS/>
 
Chịu đựng một cơn bão mạnh trên đường đi, vốn đã khiến con tàu lật nghiêng đến 30°, ''Augusta'' buộc phải giảm tốc độ xuống còn {{convert|5|kn|km/h|abbr=on}}, nhưng không tránh khỏi một xuồng máy săn cá voi {{convert|26|ft|m|abbr=on}} bị sóng đánh trôi mất. Con tàu đi đến nơi vào ngày hôm sau, đi ngược dòng sông Hoàng Phố, và băng ngang qua nhiều tàu chiến Nhật Bản trên đường đi, chủ yếu là tàu tuần dương hạng nhẹ và tàu khu trục. Họ đã chào vị Đô đốc bên trên ''Augusta'' theo đúng nghi thức hải quân.<ref name=DANFS/>
 
Trong khi đó, tại Thượng Hải, [[máy bay ném bom]] hạng nhẹ [[Northrop 2-E]] của [[Không quân Trung Hoa dân quốc]] đã tìm cách ném bom xuống các vị trí Nhật Bản trong khu Tô giới Quốc tế; tuy nhiên các quả bom đã chệch khỏi đích và gây hư hại vật chất cũng như thương vong lớn cho khu vực trung lập của tô giới. Một máy bay mang hai quả bom đã bay xuôi xuống sông Hoàng Phố và thả bom nổ tung về phía mũi ''Augusta'' bên mạn phải. Sau vụ này, hình lớn cờ Hoa Kỳ được vẽ trên nóc ba tháp pháo chính của con tàu cho dễ nhận dạng tính trung lập của nó. Đến ngày [[18 tháng 8]], nó nhổ neo tiếp tục đi ngược dòng, và được những [[tàu kéo]] trợ giúp, đã thả neo tại [[bến Thượng Hải]] nổi tiếng. Con tàu ở lại nơi này cho đến [[tháng 1]], [[1938]], chứng kiến cuộc xung đột Trung-Nhật ở khoảng cách rất gần.<ref name=DANFS/>
 
Thoạt tiên có vấn đề trong việc di tản công dân Hoa Kỳ khỏi vùng chiến sự, khi họ tập trung tại Thượng Hải chờ đợi những tàu buôn của hãng Dollar Line tiếp đón và được đội đổ bộ của ''Augusta'' bảo vệ. Phân đội thủy binh của con tàu đã lên bờ hỗ trợ cho lực lượng Thủy quân Lục chiến thiết lập các điểm phòng thủ nhằm giữ cho chiến sự bên ngoài khu vực trung lập. Vào chiều tối ngày [[20 tháng 8]], [[1937]], đang khi thủy thủ đoàn tập trung phía giữa tàu để xem phim, một quả đạn pháo phòng không Trung Quốc đã kích nổ gần đó, làm thiệt mạng một thủy thủ và làm bị thương nhiều người khác. Mười ngày sau đó, một quả bom của máy bay Trung Quốc đã ném trúng chiếc tàu buôn SS ''President Hoover'' của hãng Dollar Line tại cửa sông Hoàng Phố, khiến một người thiệt mạng và nhiều người bị thương. Vì vậy sau đó các tàu buôn Hoa Kỳ không ghé đến Thượng Hải, và một đề xuất của cử một đội tàu tuần dương hạng nặng đến di tản các kiều dân bị [[Tổng thống Hoa Kỳ|Tổng thống]] [[Franklin Delano Roosevelt|Franklin D. Roosevelt]] bác bỏ.<ref name=DANFS/>
 
Tại Thượng Hải, sĩ quan và thủy thủ của ''Augusta'' có cơ hội quan sát trận chiến. Vị trí neo đậu của chiếc tàu tuần dương là nơi thuận tiện để phía Hoa Kỳ có dịp đánh giá khả năng hoạt động của tàu chiến và máy bay [[Hải quân Đế quốc Nhật Bản|Hải quân Nhật Bản]], một cơ hội mà Đô đốc Yarnell không bỏ qua. Ông gửi nhiều báo cáo tình báo sáng suốt về [[Washington, D. C.]] nhằm cảnh báo cho Bộ Hải quân về đặc tính và khả năng của Hải quân Nhật, có thể là đối thủ tiềm năng trong tương lai. Đến ngày [[12 tháng 12]], máy bay của Hải quân Nhật đã đánh chìm pháo hạm ''Panay'' và ba tàu chở dầu của hãng Standard Oil tại sông Dương Tử về phía Bắc Nam Kinh; và không lâu sau đó những người sống sót đã đi đến Thượng Hải trên tàu chị em của ''Panay'' là {{USS|Oahu|PR-6|3}}, vốn neo đậu cặp bên mạn ''Augusta'' từ ngày [[19 tháng 12]]. Họ cùng nhau trải qua những ngày nghỉ của lễ [[Giáng Sinh]].<ref name=DANFS/>
 
''Augusta'' rời Thượng Hải để đi Philippines cho lượt bảo trì hàng năm vào ngày [[6 tháng 1]], [[1938]]. Tuy nhiên, Đô đốc Yarnell cho rằng sự hiện diện của ông tại Trung Quốc là cần thiết, nên đã ở lại Thượng Hải cùng một ban tham mưu thu gọn trên chiếc ''Isabel''. Ông quay trở lại ''Augusta'' khi nó hoàn tất việc sửa chữa và quay trở lại Thượng Hải vào ngày [[9 tháng 4]]. Chiếc tàu tuần dương đưa Tư lệnh Hạm đội Á Châu đi dọc theo bờ biển lên phía Bắc, viếng thăm Thanh Đảo trong các ngày [[12 tháng 5|12]] và [[13 tháng 5]], Yên Đài vào ngày [[14 tháng 5]] trước khi đi đến Tần Hoàng Đảo vào ngày [[15 tháng 5]]. Tại đây Đô đốc Yarnell rời tàu cho chuyến đi đến Thiên Tân và Bắc Kinh, thanh tra các đơn vị Thủy quân Lục chiến trú đóng tại đây, rồi quay trở lại Tần Hoàng Đảo và lên tàu vào ngày [[29 tháng 5]]. Con tàu quay trở lại Thượng Hải ngang qua Yên Đài, đến nơi vào ngày [[6 tháng 6]]; chuyển cờ hiệu của mình sang chiếc ''Isabel'' vào ngày [[ 23 tháng 6]] cho chuyến đi đến Nam Kinh và Vu Hồ, quay trở lại Thượng Hải và lên ''Augusta'' vào ngày [[ 27 tháng 6]].<ref name=DANFS/>
 
Đi đến Thanh Đảo vào ngày [[3 tháng 7]], ''Augusta'' hoạt động tại vùng biển phía Bắc Trung Quốc giữa Thanh Đảo và Tần Hoàng Đảo, ở lại khu vực này suốt mùa Hè cho đến đầu [[ tháng 10]]. Lên đường đi Thượng Hải vào ngày [[ 10 tháng 10]], nó đến nơi hai ngày sau đó và ở lại đây cho đến hết lễ Giáng Sinh. Nó lại khởi hành đi Philippines vào ngày [[27 tháng 12]] để đại tu, và một lần nữa Đô đốc Yarnell quyết định ở lại Trung Quốc, đặt cờ hiệu của ông trên ''Isabel''.<ref name=DANFS/>
 
Hoàn tất việc sửa chữa và huấn luyện tại vùng biển Philippine, ''Augusta'' viếng thăm [[Thái Lan|Siam]], [[Đông Dương thuộc Pháp]] và [[Singapore]] trước khi quay trở lại Thượng Hải, đến nơi vào ngày [[30 tháng 4]], [[1939]]. Nó tiếp tục được Đô đốc Yarnell chọn làm soái hạm và ở lại cảng này cho đến ngày [[8 tháng 6]], khi nó lên đường đi Tần Hoàng Đảo, đến nơi vào ngày [[10 tháng 6]], rồi ghé qua Yên Đài trong các ngày [[24 tháng 6|24]] và [[25 tháng 6]], ở lại Thanh Đảo từ ngày [[26 tháng 6]] đến ngày [[16 tháng 7]] rồi lên đường quay trở lại Thượng Hải, đến nơi vào ngày [[18 tháng 7]].<ref name=DANFS/>
 
Đến ngày [[25 tháng 7]], Đô đốc [[Thomas C. Hart]] kế nhiệm Đô đốc Yarnell, và ''Augusta'' lên đường vào ngày [[2 tháng 8]] đưa vị tân Tư lệnh Hạm đội Á Châu viếng thăm Thanh Đảo. Nó có mặt tại đây vào ngày [[Chiến tranh Thế giới thứ hai|chiến tranh nổ ra tại Châu Âu]], và ở lại cảng này cho đến cuối [[tháng 9]]. Trong giai đoạn này nó đã hai lần viếng thăm Thượng Hải (từ ngày [[5 tháng 9|5]] đến ngày [[7 tháng 9]] và từ ngày [[15 tháng 9|15]] đến ngày [[19 tháng 9]]), và cũng viếng thăm Tần Hoàng Đảo, Yên Đài và Bắc Đới Hà. Vào cuối [[tháng 9]], Đô đốc Hart rời tàu tại Tần Hoàng Đảo cho chuyến đi thanh tra các đơn vị Thủy quân Lục chiến trú đóng tại Bắc Kinh và Thiên Tân.<ref name=DANFS/>
 
Quay trở lại Thượng Hải vào ngày [[12 tháng 10]], ''Augusta'' ở lại cảng này cho đến giữa [[tháng 11]], khi Đô đốc Hart chuyển cờ hiệu của ông sang ''Isabel'' cho chuyến đi ngược dòng sông Dương Tử đến Nam Kinh từ ngày [[3 tháng 11|3]] đến ngày [[7 tháng 11]]. Lên đường đi Philippines vào ngày [[21 tháng 11]], nó viếng thăm Hạ Môn trên đường đi trong các ngày [[22 tháng 11|22]] và [[23 tháng 11]], và cuối cùng đi đến Manila vào ngày [[25 tháng 11]], ở lại đây cho đến [[tháng 4]], [[1940]], từng viếng thăm [[Jolo, Sulu]] và [[Tawi-Tawi]]. Trong giai đoạn này, Đô đốc Hart chuyển cờ hiệu của ông sang ''Isabel'' vào [[ tháng 3]] cho chuyến viếng thăm [[Cebu]], [[Iligan]], [[Parang, Maguindanao|Parang]], [[Zamboanga (thành phố)|Zamboanga]] và Jolo, quay trở lại ''Augusta'' tại Jolo vào ngày [[19 tháng 3]]. Lại chuyển sang ''Isabel'' tại Tawi-Tawi hai ngày sau đó, Tư lệnh Hạm đội Á Châu viếng thăm [[vịnh Malampaya]] trước khi quay lại chiếc tàu tuần dương tại Manila vào ngày [[26 tháng 3]]. Con tàu sau đó lên đường đi Thượng Hải, trong khi Đô đốc Hart chuyển sang chiếc ''Isabel'' từ ngày [[13 tháng 4]] cho chuyến viếng thăm [[Sán Đầu]] và Hạ Môn, quay trở lại chiếc tàu tuần dương vào ngày [[22 tháng 4]].<ref name=DANFS/>
 
Sau một tháng ở lại Thượng Hải, ''Augusta'' khởi hành đi lên phía Bắc, viếng thăm Tần Hoàng Đảo vào ngày [[12 tháng 6]] trước khi bắt đầu chu kỳ huấn luyện thường lệ của nó tại Thanh Đảo cho đến cuối [[tháng 9]]. Trong giai đoạn này, tình hình chiến sự Trung-Nhật căng thẳng buộc Đô đốc Hart nhiều lần phải viếng thăm Thượng Hải; ông đi đến Thượng Hải trên chiếc ''Isabel'' và quay trở lại Thanh Đảo trên ''Augusta''; đi đến Thượng Hải trên [[tàu ngầm]] {{USS|Porpoise|SS-172|3}} và quay trở lại Thanh Đảo trên ''Isabel''; cùng một chuyến khứ hồi đến Thượng Hải trên [[tàu tuần dương hạng nhẹ]] {{USS|Marblehead|CL-12|3}}. ''Augusta'' rời Thanh Đảo lần sau cùng vào ngày [[23 tháng 9]] và đi đến Thượng Hải vào ngày [[25 tháng 9]]. Nó đi đến Manila vào ngày [[21 tháng 10]], và ở lại đây cho đến cuối [[tháng 11]], khi được chiếc tàu chị em {{USS|Houston|CA-30|3}} vừa mới được hiện đại hóa thay phiên trong vai trò soái hạm Hạm đội Á Châu vào ngày [[22 tháng 11]]. ''Augusta'' rời vịnh Manila cùng ngày hôm đó cho hành trình quay trở về Hoa Kỳ.<ref name=DANFS/>
 
Trên đường đi vào ngày [[24 tháng 11]], ''Augusta'' được lệnh tuần tra tại vùng biển phía Bắc chuỗi [[quần đảo Hawaii]] nhằm truy tìm những [[tàu chở dầu]] Nhật Bản được báo cáo xuất hiện tại khu vực lân cận. Chiếc tàu tuần dương gặp phải hoàn cảnh thời tiết bất lợi, biển động mạnh và gió ngang khiến không thể tiến hành trinh sát bằng [[thủy phi cơ]], trong khi tầm nhìn chỉ đạt được {{convert|8|-|15|nmi|km|abbr=on}}. Ở khoảng tọa độ {{coord|35|00|N|165|00|W}}, con tàu tắt đèn và giữ im lặng vô tuyến khi rà soát một khu vực vành đai rộng {{convert|25|nmi|km|abbr=on}}.<ref name=DANFS/>
 
=== Tái trang bị ===
Về đến [[Long Beach, California]] vào ngày [[10 tháng 12]], ''Augusta'' đi vào [[Xưởng hải quân Mare Island]] cho một đợt tái trang bị lớn, bao gồm những cải tiến vốn đã được áp dụng cho những tàu chị em [[Northampton (lớp tàu tuần dương)|lớp ''Northampton'']], nhưng bị trì hoãn đối với ''Augusta'' cho đến khi nó kết thúc giai đoạn phục vụ cùng Hạm đội Á Châu.<ref name=DANFS/>
 
Trong đợt đại tu này, ''Augusta'' được cải thiện đáng kể dàn hỏa lực phòng không. Bốn khẩu pháo [[hải pháo 5 inch/25 caliber Mark 10|{{convert|5|in|mm|abbr=on}}/25 caliber Mark 10]] được bố trí bên trên hầm chứa thủy phi cơ; các tấm chắn mảnh đạn được trang bị cho các khẩu pháo trên hầm chứa và trên sàn tàu. Những khẩu pháo 3 inch (76 mm) được trang bị tạm thời cho đến khi được thay thế hoàn toàn bằng pháo {{convert|1,1|in|mm|abbr=on}} theo nguyên tắc một đổi một; và bộ điều khiển hỏa lực Mark XIX được trang bị cho pháo 5 inch (127 mm). Việc trang bị các bộ điều khiển hỏa lực và máy đo tầm xa đã làm thay đổi kiểu dáng của con tàu, và một bệ được bố trí trên cột ăn-ten phía trước để gắn ăn-ten của kiểu [[radar]] sơ khai [[radar CXAM|CXAM-1]] một khi nó sẵn sàng. Con tàu là một trong số mười bốn tàu chiến đầu tiên được trang bị kiểu radar [[RCA]] CXAM-1.<ref name=DANFS/><ref>{{cite journal | last=Macintyre | first=Donald |title=Shipborne Radar | publisher=United States Naval Institute Proceedings | month=September | year=1967}}</ref>
 
 
Trong đợt đại tu này, ''Augusta'' được cải thiện đáng kể dàn hỏa lực phòng không. Bốn khẩu pháo [[hải pháo 5 inch/25 caliber Mark 10|{{convert|5|in|mm|abbr=on}}/25 caliber Mark 10]] được bố trí bên trên hầm chứa thủy phi cơ; các tấm chắn mảnh đạn được trang bị cho các khẩu pháo trên hầm chứa và trên sàn tàu. Những khẩu pháo 3 inch (76 mm) được trang bị tạm thời cho đến khi được thay thế hoàn toàn bằng pháo {{convert|1,1|in|mm|abbr=on}} theo nguyên tắc một đổi một; và bộ điều khiển hỏa lực Mark XIX được trang bị cho pháo 5 inch (127 mm). Việc trang bị các bộ điều khiển hỏa lực và máy đo tầm xa đã làm thay đổi kiểu dáng của con tàu, và một bệ được bố trí trên cột ăn-ten phía trước để gắn ăn-ten của kiểu [[radar]] sơ khai [[radar CXAM|CXAM-1]] một khi nó sẵn sàng. Con tàu là một trong số mười bốn tàu chiến đầu tiên được trang bị kiểu radar [[RCA]] CXAM-1.<ref>{{cite journal | last=Macintyre | first=Donald |title=Shipborne Radar | publisher=United States Naval Institute Proceedings | month=September | year=1967}}</ref>
 
=== Hạm đội Đại Tây Dương ===
Rời Xưởng hải quân Mare Island vào ngày [[11 tháng 4]], [[1941]] với lớp sơn và diện mạo mới, ''Augusta'' lên đường đi San Pedro và ở lại đây cho đến ngày [[13 tháng 4]]. Nó băng qua [[kênh đào Panama]] bốn ngày sau đó và trình diện để phục vụ cùng [[Hạm đội Đại Tây Dương Hoa Kỳ|Hạm đội Đại Tây Dương]] vào ngày [[17 tháng 4]]. Rời vùng kênh đào vào ngày [[19 tháng 4]], nó đi đến [[Newport, Rhode Island]] vào ngày [[23 tháng 4]], nơi [[Đô đốc]] [[Ernest J. King]], Tổng tư lệnh Hạm đội Đại Tây Dương, quay trở lại từ thủ đô [[Washington, D.C.]] và đặt cờ hiệu của mình bên trên ''Augusta'' vào ngày [[2 tháng 5]]. Chiếc tàu tuần dương tiếp tục ở lại Newport, phục vụ như là [[soái hạm]] của Tổng tư lệnh Hạm đội Đại Tây Dương, cho dù Đô đốc King quay trở lại Washington vào lúc này. Nó khởi hành đi [[Bermuda]] vào ngày [[24 tháng 5]], đến nơi vảo ngày [[26 tháng 5]] và ở lại đây cho đến ngày [[28 tháng 5]], khi nó lên đường quay trở lại Newport.<ref name=DANFS/>
 
''Augusta'' tiếp tục thả neo tại [[vịnh Narragansett]] từ ngày [[30 tháng 5]] đến ngày [[23 tháng 6]], khi nó lên đường đi đến [[Xưởng hải quân New York]] để cải biến do được lựa chọn cho một nhiệm vụ đặc biệt. [[Tổng thống Hoa Kỳ|Tổng thống]] [[Franklin D. Roosevelt]] có kế hoạch gặp gỡ [[Thủ tướng Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Thủ tướng Anh Quốc]] [[Winston Churchill]] để bàn luận về phối hợp hoạt động chung chống [[Đức Quốc Xã]]; cuộc gặp gỡ được dự định diễn ra ngoài khơi [[Newfoundland và Labrador|Newfoundland]]. Chiếc tàu tuần dương được chọn như là soái hạm của Tổng thống, nên cần có những cải biến và nâng cấp cho phù hợp.
 
''Augusta'' tiếp tục thả neo tại [[vịnh Narragansett]] từ ngày [[30 tháng 5]] đến ngày [[23 tháng 6]], khi nó lên đường đi đến [[Xưởng hải quân New York]] để cải biến do được lựa chọn cho một nhiệm vụ đặc biệt. [[Tổng thống Hoa Kỳ|Tổng thống]] [[Franklin D. Roosevelt]] có kế hoạch gặp gỡ [[Thủ tướng Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Thủ tướng Anh Quốc]] [[Winston Churchill]] để bàn luận về phối hợp hoạt động chung chống [[Đức Quốc Xã]]; cuộc gặp gỡ được dự định diễn ra ngoài khơi [[Newfoundland và Labrador|Newfoundland]]. Chiếc tàu tuần dương được chọn như là soái hạm của Tổng thống, nên cần có những cải biến và nâng cấp cho phù hợp.<ref name=DANFS/>
Xưởng tàu muốn giữ ''Augusta'' lại lâu hơn cho những công việc sửa chữa và đại tu cần thiết khác; tuy nhiên Đô đốc King đã chỉ thị cho Văn phòng Tàu chiến chỉ thực hiện những cải tiến thực sự “cần thiết” để sẵn sàng cho việc phục vụ cho Tổng thống trong thời hạn nhanh nhất. Vì thế con tàu đã chỉ ở trong xưởng tàu từ ngày [[23 tháng 6]] đến ngày [[2 tháng 7]], rồi hoạt động dọc bờ Đông ngoài khơi [[đảo Hilton Head, South Carolina|Hilton Head]] và [[Charleston, South Carolina|Charleston]], [[South Carolina]] trong các ngày [[4 tháng 7|4]] và [[5 tháng 7]], rồi ngoài khơi [[Hampton Roads]] trong các ngày [[6 tháng 7|6]] và [[7 tháng 7]] trước khi quay trở lại Newport vào ngày [[8 tháng 7]]. Nó ở lại đây cho đến [[tháng 8]].
 
Xưởng tàu muốn giữ ''Augusta'' lại lâu hơn cho những công việc sửa chữa và đại tu cần thiết khác; tuy nhiên Đô đốc King đã chỉ thị cho Văn phòng Tàu chiến chỉ thực hiện những cải tiến thực sự “cần thiết” để sẵn sàng cho việc phục vụ cho Tổng thống trong thời hạn nhanh nhất. Vì thế con tàu đã chỉ ở trong xưởng tàu từ ngày [[23 tháng 6]] đến ngày [[2 tháng 7]], rồi hoạt động dọc bờ Đông ngoài khơi [[đảo Hilton Head, South Carolina|Hilton Head]] và [[Charleston, South Carolina|Charleston]], [[South Carolina]] trong các ngày [[4 tháng 7|4]] và [[5 tháng 7]], rồi ngoài khơi [[Hampton Roads]] trong các ngày [[6 tháng 7|6]] và [[7 tháng 7]] trước khi quay trở lại Newport vào ngày [[8 tháng 7]]. Nó ở lại đây cho đến [[tháng 8]].<ref name=DANFS/>
Khi Thủ tướng Churchill bắt đầu hành trình vượt [[Đại Tây Dương]] bên trên [[thiết giáp hạm]] {{HMS|Prince of Wales|1939|2}}, Tổng thống Roosevelt cũng bắt đầu chuyến đi khi rời Washington, D.C. lúc 11 giờ 00 ngày [[3 tháng 8]] để đi đến Căn cứ Tàu ngầm tại [[New London, Connecticut]], nơi ông cùng đoàn tùy tùng lên chiếc du thuyền {{USS|Potomac|AG-25|3}}, rồi được chiếc {{USS|Calypso|AG-35|3}} hộ tống lên đường đi [[vịnh Appogansett]]. Đến 22 giờ 23 phút ngày [[4 tháng 8]], ''Potomac'' thả neo tại khu vực [[quần đảo Elizabeth]], [[Massachusetts]], bên cạnh ''Augusta''; tàu tuần dương hạng nặng {{USS|Tuscaloosa|CA-37|5}} cùng năm tàu khu trục hộ tống cũng thả neo tại khu vực lân cận.
 
Khi Thủ tướng Churchill bắt đầu hành trình vượt [[Đại Tây Dương]] bên trên [[thiết giáp hạm]] {{HMS|Prince of Wales|1939|2}}, Tổng thống Roosevelt cũng bắt đầu chuyến đi khi rời Washington, D.C. lúc 11 giờ 00 ngày [[3 tháng 8]] để đi đến Căn cứ Tàu ngầm tại [[New London, Connecticut]], nơi ông cùng đoàn tùy tùng lên chiếc du thuyền {{USS|Potomac|AG-25|3}}, rồi được chiếc {{USS|Calypso|AG-35|3}} hộ tống lên đường đi [[vịnh Appogansett]]. Đến 22 giờ 23 phút ngày [[4 tháng 8]], ''Potomac'' thả neo tại khu vực [[quần đảo Elizabeth]], [[Massachusetts]], bên cạnh ''Augusta''; tàu tuần dương hạng nặng {{USS|Tuscaloosa|CA-37|5}} cùng năm tàu khu trục hộ tống cũng thả neo tại khu vực lân cận.<ref name=DANFS/>
=== Mở đầu Chiến tranh Thế giới thứ hai ===
=== Chiến dịch Torch ===
=== Morocco ===
=== Normandy ===
 
== Phần thưởng ==
''Augusta'' được tặng thưởng ba [[Ngôi sao Chiến đấu]] do thành tích phục vụ trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Chiến tranh Thế giới thứ hai]].<ref name=DANFS/>
 
==Xem thêm==
Hàng 156 ⟶ 149:
 
== Tham khảo ==
=== MoroccoGhi chú ===
{{reflist|group=Note}}
=== Chú thích===
{{Tham khảo|2}}
=== Thư mục ===
* {{cite DANFS | author=[[Naval Historical Center]] | title=Augusta IV (CL-31) 1931-1959 | url=https://www.history.navy.mil/research/histories/ship-histories/danfs/a/augusta-iv.html | accessdate=2019-10-09}}
* Bài này có các trích dẫn từ nguồn [[:en:Dictionary of American Naval Fighting Ships]] thuộc [[phạm vi công cộng]].
* {{chú thích sách | title=The Ships and Aircraft of the U.S. Fleet, Two-Ocean Fleet Edition | author=Fahey, James C. | publisher=Ships and Aircraft | year=1941}}
* {{chú thích sách | title=Augusta Cruises From Orient to Oceania, Being the 1934 Cruise of the U.S.S. Augusta from China to Guam, Australia, Dutch East Indies and Philippine Islands | author=Stephens, Bart D., Editor, Commander, (Chaplain Corps) | publisher=Ship's publication | year=1934}}