Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tranh chấp chủ quyền Biển Đông”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 9:
Đối với [[Nhật Bản]] thì Biển Đông là con đường giao thông huyết mạch, không chỉ với [[Đông Nam Á]] mà cả với [[Trung Đông]] và [[châu Âu]]. Nền [[kinh tế Nhật Bản]] gắn liền với sự giao thông này.<ref>"Oil Drives Territorial Dispute in South China Sea", International Herald Tribunes, 4/24/1995.</ref><ref>"Creeping Irredentitism in the Spratly Islands", Luân Đôn: The International Institute for Strategic Studies, March 1995, Strategic Comments.</ref>
 
Biển Đông có vai trò quan trọng với Việt Nam về mặt quốc phòng. Địa bàn rừng núi phía Bắc Việt Nam bao lấy vùng đồng bằng vừa hẹp vừa nhỏ, nên khi có xung đột các hoạt động bổ sung năng lực hậu cần vô cùng khó khăn, khó triển khai liên tục. Một khiKhi lực lượng hải quân nước ngoài triển khai từ trên biển thì Việt Nam có thể bị tấn công đổ bộ từ bất kỳ địa điểm nào dọc theo đường bờ biển. Miền Bắc Việt Nam tiếp giáp với hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây, Trung Quốc nên sẽ nhanh chóng rơi vào thế bị bao vây, cô lập, đầu đuôi khó ứng cứu cho nhau.<ref>[https://giaoduc.net.vn/tieu-diem/hoc-gia-trung-quoc-bay-muu-chia-cat-viet-nam-tu-phia-bien-post167217.gd Học giả Trung Quốc bày mưu chia cắt Việt Nam từ phía biển], Báo Giáo dục Việt Nam, 19/04/2016</ref> Trên thực tế người Pháp từng xâm lược Việt Nam thành công bằng cách đổ bộ từ biển Đông.
 
Sau khi [[Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển]] năm [[1982]] quy định về [[vùng đặc quyền kinh tế]] thì tầm quan trọng của việc khai thác tài nguyên, đặc biệt là đánh cá và khai thác [[dầu khí]] là nguyên nhân bổ sung cho mục đích tranh chấp.<ref>Paul McDonald "Scrambling for Oil in Asia". The World Today (October 1992), trang 174-175; Chang Pao-Min, "A New Scramble for the South China Sea islands", Comtemporary Southeast Asia 12,1 (June 1990) trang 20-39.</ref>