Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kinh tế Việt Nam”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 45:
Nền văn minh của Việt Nam đã được xây dựng trên nông nghiệp.Các triều đại phong kiến đã luôn luôn coi nông nghiệp như là cơ sở kinh tế chính, những tư tưởng kinh tế của họ đã được khẳng định trên chủ nghĩa trọng nông. Quyền sở hữu đất đai đã được qui định và những công trình qui lớn như đê, các công trình thủy lợi đã được xây dựng ở đồng bằng sông Hồng để tạo điều kiện canh tác lúa nước. Trong những thời điểm yên bình, những người lính đã được gửi về nhà để làm, triều đình gọi chính sách này là ngụ binh ư nông. Hơn nữa, triều đình cấm giết mổ trâu bò, gia súc và tổ chức nhiều nghi lễ liên quan tới nông nghiệp. Thủ công mỹ nghệ và nghệ thuật được coi trọng, nhưng thương mại không được xem trọng, những người kinh doanh được gọi là ‘’con buôn’’. Do đồng bằng nhỏ hẹp, nông nghiệp năng suất thấp, thủ công nghiệp và thương mại kém phát triển nên nền kinh tế quốc gia là tự cung tự cấp. Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam không thể xem là một quốc gia giàu có.
Từ thế kỉ 16, một nền kinh tế thị trường bắt đầu phát triển. Tại Đàng Trong ngoại thương phát triển mạnh. Đàng Trong trở thành nơi cung cấp nông sản, lâm sản, khoáng sản cho thương nhân Trung Quốc, Nhật Bản và phương Tây. Sang thời Nguyễn, các cảng thương mại ban đầu, như [[Hội An]], bị hạn chế, và các quốc gia nước ngoài có nền văn hóa khác nhau và tham vọng xâm lược của họ được coi là một mối đe dọa. Do nền kinh tế mang tính tự cung tự cấp, Việt Nam không có một nền công nghiệp và thương mại phát triển nên cũng không có nhu cầu mở cửa để giao thương. Chính sách đóng cửa này
===Trước 1954===
|