Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mãnh Lạp, Kim Bình”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Trình soạn thảo mã nguồn 2017
Thẻ: Trình soạn thảo mã nguồn 2017
Dòng 15:
[[Tập tin:HungHoa.jpg|nhỏ|600px|phải|Hưng Hóa với vị trí các địa danh châu huyện thuộc các phủ Quy Hóa, An Tây, Điện Biên, Gia Hưng của xứ Hưng Hóa tiếp giáp Trung Quốc, và Lào gồm (Văn Bàn, Thủy Vĩ, Chiêu Tấn, '''Quảng Lăng''' (Mường La (芒羅), nay là trấn '''Mãnh Lạp''', Meng-la-xiāng (''勐拉乡'') huyện [[Kim Bình, Hồng Hà|Kim Bình]] châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam Trung Quốc), Hợp Phì (Xiềng My, nay là hương [[Giả Mễ]] (''者米乡'', Zhe-mi-xiang)), Tuy Phụ, Hoàng Nham, Lễ Tuyền, Tung Lăng, Khiêm, Lai, Luân, Thuận, Tuần Giáo, Ninh Biên, Quỳnh Nhai, Sơn La, Mai Sơn, Yên, Phù Hoa, Mộc, Đà Bắc, [[Sop Bao|Mã Nam]], Mai, Thanh Xuyên, Yên Lập, Văn Chấn và Trấn Yên).]]
[[Tập tin:KienVanTieuLuc41-42.jpg|nhỏ|600px|phải|Trang 41 và 42, quyển VI: Phong vực chí, cuốn Kiến văn tiểu lục (見闻小录) của Lê Quý Đôn (bản chữ Hán Nôm).]]
Trong Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn viết rằngː Châu Tuy Phụ (''綏阜'') thổ âm gọi là [[Mường Tè]] (芒齊) có 2 động là: Nậm Mạ và Nậm Lân. Châu Hoàng Nham (''黃岩'') thổ âm gọi là [[Mường Nhé|Mường Tông]] (Mường Toong, 芒㯶 [[chữ Nôm]]), có 2 động là: Ngà và Mỏ Sạch. Động Ngà có mỏ vàng còn Mỏ Sạch là đất mỏ sắt. Châu Tung Lăng (''嵩陵'') thổ âm gọi là Phù Phang (扶滂, là khu vực các địa danh M.Léo, Ki Ma Pa (骑马坝) và các địa danh Li Fang, Buon Fang trong bản đồ Bắc Kỳ năm 1902 mà nay là khoảng các khu vực hương [[Bán Pha]] (半坡) huyện [[Lục Xuân]] châu [[Hồng Hà (châu tự trị)|Hồng Hà]] tỉnh [[Vân Nam]] Trung Quốc và các xã [[Sín Thầu|Sín Thầu Mường Nhé]], [[Sen Thượng|Sen Thượng Mường Nhé]], [[Mù Cả]] [[Mường Tè]] thuộc 2 tỉnh [[Điện Biên]], [[Lai Châu]] Việt Nam), có 3 động là: Cống Võng, Nậm Cảm và Suối Vàng. Châu Khiêm (''謙州'') thổ âm gọi là Mường Tinh (Nay không rõ ở đâu, nhưng có thể là Mường Tía (M.Tía) nằm phía phải sông Đà (bờ Nam) khoảng giữa Mường Toong và Mường Lễ. Cũng có thể là M.Boum và M.Mo (bờ trái sông Đà nay khoảng xã [[Bum Nưa]], [[Bum Tở]] huyện Mường Tè nằm giữa xã Mường Toong (Hoàng Nham xưa) và thị xã Mường Lay (mường Lễ xưa)). Châu Lễ Tuyền (''醴泉'') thổ âm gọi là Mường Bẩm (芒禀, nay là mường Boum (M.Boum)). Châu Hợp Phì (''合淝'') thổ âm gọi là Trình Mi (呈眉) (tức là Mường Mì<ref>[http://bienphongvietnam.vn/nghien-cuu-trao-doi/tu-lieu/1549-ddd.html Vấn đề biên giới tiếp giáp giữa Tây Bắc Việt Nam và Trung Quốc, Phạm Văn Lực, báo Biên phòng Việt Nam, 06 Tháng 8 năm 2015.]</ref> hay Xiềng My, nay là hương [[Giả Mễ]] (''者米乡'', Zhe-mi-xiang) huyện Kim Bình châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam). Châu '''[[Mường La (Quảng Lăng), Hưng Hóa|Quảng Lăng]]''' (''廣陵''), thổ âm gọi là '''Mường La''' (芒羅, nay là trấn [[Mãnh Lạp, Kim Bình|Mường Lạp]], Meng-la-xiāng (''勐拉乡'') huyện [[Kim Bình, Hồng Hà|Kim Bình]] châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam Trung Quốc), có 3 phố người Hoa là: Hồ Quảng, Quảng Tây và Khai Hóa, nằm bên dưới 6 châu kể trên và bên trên châu Chiêu Tấn. (Quan niệm trên dưới của Lê Quý Đôn có lẽ là theo hướng đường bộ đi từ Mường Thu (Chiêu Tấn) qua Quảng Lăng mới đến 6 châu kể trên.) Cả bảy châu này (6 châu tên Việt Nam, 1 châu tên Trung Quốc) đến thời Lê Quý Đôn đều mất về Trung Quốc.<ref>Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn, Hưng Hóa, trang 312-313.</ref> Riêng về châu Quảng Lăng, Lê Quý Đôn viết: "''Châu Quảng Lăng thổ âm là Mường La (芒羅), bên trái sông Kim Tử (金子河, Trung Quốc) và ở phía trên châu Chiêu Tấn, đi từ [[Phong Thổ|Mường Thu]] (芒秋) phải 2 ngày, từ [[Văn Bàn]] phải 6 ngày, từ [[Thăng Long|Kinh]] ra đi phải 26 ngày. Trước châu này bị viên huyện [[Kiến Thủy, Hồng Hà|Kiến Thủy]] (Trung Quốc) chiếm riêng, đến [[1777|nay (năm Đinh Dậu niên hiệu Cảnh Hưng)]] đã 93 năm, mỗi năm phải nộp bạc thuế 6 dật 6 lạng. Trong châu có người Trung Quốc cư trú, chia thành 3 phố là phố Hồ Quảng, phố Quảng Tây và phố Khai Hóa. Có [[Đồng Xưởng|mỏ đồng đỏ]], mỏ kim sa, người Trung Quốc đương khai khẩn để lấy.'"
 
Như thế châu Quảng Lăng (tên châu Trung Quốc) đã mất về Trung Quốc khoảng những năm [[1684]] niên hiệu [[Lê Hy Tông|Chính Hòa]] nhà Lê, và [[Khang Hy]] nhà Thanh. Các phố người Hoaː Hồ Quảng, Quảng Tây và Khai Hóa thời thế kỷ 18, nay là thôn Quảng Đông (广东村) tiếp giáp với hương Đồng Xưởng liền kề cùng thuộc huyện Kim Bình.
 
Trong tất cả các vùng lãnh thổ thuộc xứ Hưng Hóa bị mất về nhà Thanh Trung Quốc, thì vùng đất Mường La (Quảng Lăng) sau này là Mãnh La, Kim Bình là ít được sách sử Việt Nam đề cập tới nhất. Đề cập tới sớm nhất và duy nhất đến vùng đất đã mất này là Lê Quý Đôn, bác học thời Lê Trung hưng đương đại, trong cuốn Kiến văn tiểu lục. Còn các sử gia triều nhà Nguyễn đều chỉ đề cập tới 6 vùng lãnh thổ thuộc Hưng Hóa bị mất về Trung Quốc cũng không biết rõ thời điểm mất khi nào, đó là 6 châu: Lễ Tuyền, Hợp phì, Tung Lăng, Tuy Phụ, Hoàng Nham, Khiêm châu.
 
== Tham khảo ==