Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Phúc Miên Ngung”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 21:
 
== Tiểu sử ==
Hoàng tử Miên Ngung sinh ngày 7 tháng 12 (âm lịch) năm [[Kỷ Sửu]] (năm dương lịch là [[1830]]), là con trai thứ 48 của vua [[Minh Mạng]], mẹ là ''Tứ giai Huệ tần'' [[Trần Thị Huân]]. Ông sinh ngày 7 tháng 12 (âm lịch) năm [[Kỷ Sửu]] (năm dương lịch là [[1830]])<ref name=":0" />,. Hoàng tử là người con thứ sáu của bà Huệ tần. Ông lúc trẻ thông minh ham học, có tài làm thơ văn. Năm 20 tuổi, ông rời cung dọn ra ở phủ riêng, thông thuộc kinh sử, sách của [[Bách gia chư tử]] không sách nào mà không nghiên cứu, lời văn của ông chải chuốt dễ đọc<ref name=":1">''Đại Nam liệt truyện'', tập 3, quyển 6 - phần ''An Quốc công Miên Ngung''</ref>. Đương thời, ông và người anh ruột cùng mẹ là ''Quảng Ninh Quận công'' [[Nguyễn Phúc Miên Bật|Miên Bật]] có tiếng ngang nhau. Vua rất yêu bảo rằng: "''Hai viên hảo ngọc châu''"<ref name=":1" />.
 
Năm Minh Mạng thứ 21 ([[1840]]), ông được phong làm '''An Bình Quận công''' (安平郡公)<ref name=":1" />. Cùng năm đó, vua cho đúc các con thú bằng [[vàng]] để ban thưởng cho các hoàng thân anh em, các hoàng tử công và hoàng tử chưa được phong tước. Quận công Miên Ngung được ban cho một con [[tê giác]] bằng vàng nặng 5 lạng 7 [[đồng cân]]<ref>''Đại Nam thực lục'', tập 5, tr.768 (bản điện tử)695</ref>.
 
Năm [[Tự Đức]] thứ 6 ([[1853]]), [[Quý Sửu]], ngày 16 tháng 9 (âm lịch), Quận công Miên Ngung mất lúc 25 tuổi<ref name=":0" />. Vua [[Tự Đức]] biết tin, rất thương tiếc truy tặng làm '''An Quốc công''' (安國公), ban [[tên thụy]] là '''Cẩn Tuệ''' (謹慧), cho nhiều tiền tuất<ref name=":1" />. Mộ của ông được táng tại Dương Xuân (thuộc [[Hương Thủy, Thừa Thiên - Huế]])<ref name=":0" />. Năm [[Đồng Khánh]] thứ nhất ([[1885]]), cho hợp thờ ông ở đền Thân Huân<ref name=":1" />.
 
Quận công Miên Ngung có để lại tác phẩm là ''Mạn Viên thi tập''. [[Tùng Thiện Vương|''Tùng Thiện Quận vương'' [[Miên Thẩm]] đề tựa vào tập thơ ấy, cho là vì ông có linh tâm suốt đời xưa, trí sâu xa xét rõ từng tí, phát ra lời văn đều hay cả<ref name=":1" />.
 
Ông có hai con trai và một con gái. Ông được ban cho bộ chữ ''Sách'' (彳) để đặt tên cho các con cháu trong phòng<ref name=":0" />. Con trai thứ hai là công tử Hồng Tuần, lúc đầu tập phong, sau bị tội bán trộm từ đường nên bị phế, bắt đổi theo họ mẹ. Năm [[1890]] đời vua [[Thành Thái]], công tử mới được phục lại nguyên họ, năm [[1892]] mới được phục tước ''Kỳ ngoại hầu'' (外侯)<ref name=":1" />.
Dòng 33:
== Tham khảo ==
* Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc Tộc (1995), ''[http://www.namkyluctinh.com/a-sachsuvn/Nguyen_Phuc_Toc_The_Pha.pdf Nguyễn Phúc Tộc thế phả]'', Nhà xuất bản Thuận Hóa
* [[Quốc sử quán triều Nguyễn]] (2006), ''[[Đại Nam liệt truyện]] tậpchính 3biên'', quyểnTổ 6:Phiên Truyệndịch các[[Viện hoàngSử tử''học]] dịch, Nhà xuất bản Thuận Hóa
* [[Quốc sử quán triều Nguyễn]] (2006), ''[[Đại Nam thực lục]] chính biên tập 5'', Tổ Phiên dịch [[Viện Sử học]] dịch, Nhà xuất bản Giáo dục
 
== Xem thêm ==