Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi Thẻ: Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
Không có tóm lược sửa đổi Thẻ: Soạn thảo trực quan Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
||
Dòng 23:
== Lịch sử ==
• Cấp bậc '''Thiếu tướng''' được đặt ra lần đầu tiên tại Việt Nam từ năm 1946 theo Sắc lệnh số 33 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Theo sắc lệnh này thì cấp bậc tướng lĩnh sẽ được phong bởi sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ<ref>Điều 4 Sắc lệnh số 33/SL 1946.</ref>, trong đó gồm cả cấp bậc Thiếu tướng. Quân nhân đầu tiên được phong quân hàm này là [[Lê Thiết Hùng]].
• Năm 1981, Luật về Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam có quy định
- Thẩm quyền phong và thăng quân hàm cấp bậc Đại tướng và Thượng tướng, Đô đốc hải quân thuộc về [[Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam|Chủ tịch Hội đồng Nhà nước]].
Hiện nay, căn cứ theo Điều 88 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 và cũng theo Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam (sửa đổi năm 2014) các quân hàm tướng lĩnh từ [[Thiếu tướng]] đến [[Đại tướng]] đều do Chủ tịch nước, kiêm Chủ tịch [[Hội đồng Quốc phòng và An ninh Việt Nam|Hội đồng Quốc phòng và An ninh]] Quốc gia quyết định phong cấp, bao gồm cả cấp bậc Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân.▼
- Thẩm quyền phong và thăng quân hàm cấp bậc Trung tướng, Phó đô đốc hải quân và Thiếu tướng, Chuẩn đô đốc hải quân thuộc về [[Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam|Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng]].<ref>Điều 14 Luật về Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam 1981</ref>
▲
== Chức vụ được thăng quân hàm Thiếu tướng ==
|