Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bắc phạt (1926–1928)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 42:
[[File:Chiang1926.jpg|thumb|left|200px|[[Tưởng Giới Thạch]], Tổng tư lệnh Quốc dân Cách mệnh Quân nổi lên sau cuộc Bắc phạt với vai trò là nhà lãnh đạo Trung Quốc.]]
 
Trong những năm 1920, [[Chính phủ Bắc Dương]] có căn cứ tại Bắc Kinh được quốc tế công nhận là chính phủ hợp pháp của Trung Quốc. Tuy nhiên, phần lớn đất nước không nằm dưới sự kiểm soát của Chính phủ Bắc Dương, mà nằm dưới sự quản lý của quân phiệt địa phương. [[Quốc dân Đảng]] (KMT), đóng tại [[Quảng Châu]], mong muốn trở thành đảng giải phóng dân tộc. Kể từ khi kết thúc [[Phong trào Bảo vệ Hiến pháp]] (護法運動 ''vận động hộ pháp'') năm 1922, Quốc Dân Đảng đã củng cố lực lượng của mình để chuẩn bị cho một cuộc viễn chinh chống lại các quân phiệt phương Bắc ở Bắc Kinh, với mục tiêu thống nhất Trung Quốc.{{sfn|Taylor|2009|pp=30–37}} Sự chuẩn bị này bao gồm việc tận dụng sức mạnh chính trị và quân sự của Quốc Dân Đảng. Trước khi qua đời tháng 3/1925, [[Tôn Trung Sơn]], người sáng lập [[Trung Hoa Dân quốc]] và đồng sáng lập Quốc Dân đảng, người ủng hộ hợp tác Trung-Xô, dẫn tới [[Hợp tác Quốc Cộng|Mặt trận liênThống minhnhất thứ nhất]] với [[Đảng Cộng sản Trung Quốc]] (CPC).{{sfn|Wilbur|1983|page=11}} Quân đội của Quốc Dân đảng là Quốc dân Cách mệnh Quân (NRA).{{sfn|Kwong|2017|pp=149–160}} [[Tưởng Giới Thạch]], người đã nổi lên như được Tôn Trung Sơn hỗ trợ trước năm 1922, được bổ nhiệm làm tư lệnh [[Trường Quân sự Hoàng Phố]] năm 1924, và nhanh chóng nổi lên như một ứng cử viên cho vị trí kế nhiệm của Tôn sau khi ông qua đời.{{sfn|Taylor|2009|page=41}}
 
Vào ngày 30/5/1925, các sinh viên tại [[Thượng Hải]] đã tập hợp lại tại [[Tô giới Quốc tế Thượng Hải|Tô giới Quốc tế]], và tổ chức các cuộc biểu tình phản đối sự can thiệp của nước ngoài vào Trung Quốc. {{sfn|Wilbur|1983|page=22}} Đây còn được gọi là [[Phong trào Ngũ Tạp]] (五卅运动 ''vận động Ngũ Tạp''). Cụ thể, với sự hỗ trợ của Quốc dân đảng, họ kêu gọi tẩy chay hàng hóa nước ngoài và chấm dứt Tô giới, do Anh, Mỹ [[Tô giới Trung Quốc|kiểm soátl]]. [[Cục cảnh sát Tô giới Quốc tế Thượng Hải]] (上海公共租界工部局警務處), phần lớn được điều hành bởi người Anh, đã nổ súng vào đám đông người biểu tình. Vụ việc này đã gây ra sự phẫn nộ trên khắp Trung Quốc, lên đến đỉnh điểm trong [[bãi công Hồng Kông-Quảng Châu]] (省港大罷工 ''bãi công tỉnh cảng đại''), bắt đầu vào ngày 18 tháng 6, và đã chứng minh đây là mảnh đất phì nhiêu tuyển dụng của Đảng Cộng sản Trung Quốc.{{sfn|Jordan|1976|pp=11, 29}} Những lo ngại về sức mạnh đang gia tăng của phe cánh tả và ảnh hưởng của cuộc đình công đối với khả năng gây quỹ của chính quyền Quảng Châu, vốn phụ thuộc chủ yếu vào ngoại thương, dẫn đến căng thẳng gia tăng trong Mặt trận Thống nhất. Trong bối cảnh đó, Tưởng, người đang ganh đua cho vị trí lãnh đạo Quốc dân đảng, bắt đầu củng cố quyền lực để chuẩn bị cho một cuộc viễn chinh chống lại các quân phiệt phương Bắc. Vào ngày 20 tháng 3 năm 1926, ông đã phát động một cuộc thanh trừng không đổ máu vào những người cộng sản cứng rắn, những người phản đối cuộc chinh phạt được ​​chính quyền Quảng Châu đề xuất và quân đội của nó, được gọi là [[Đảo chính Quảng Châu]] (中山艦事件 ''sự kiện Trung Sơn hạm''). Đồng thời, Tưởng thực hiện các động thái hòa giải đối với Liên Xô và cố gắng cân bằng hỗ trợ cần thiết của Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc trong cuộc chiến chống lại các quân phiệt với những lo ngại về ảnh hưởng cộng sản ngày càng tăng với Quốc Dân Đảng.{{sfn|Jordan|1976|pp=39–40}}{{sfn|Wilbur|1983|page=47}} Sau cuộc đảo chính, Tưởng đã thương lượng một thỏa hiệp, theo đó các thành viên cứng rắn của phe cánh hữu, như [[Ngô Thiết Thành]] (吳鐵城), đã bị cắt mọi chức vụ để đền bù cho phe cánh tả bị thanh trừng. Bằng cách đó, Tưởng đã có thể chứng minh sự hữu ích của mình đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc và Liên Xô viện trợ, [[Joseph Stalin]]. Viện trợ của Liên Xô cho chính phủ Quốc Dân Đảng vẫn được tiếp tục, cũng như hợp tác với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Một liên minh mỏng manh giữa phe cánh hữu Quốc dân đảng, phe trung dung của Tưởng, phe cánh tả Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc quản lý để cùng nhau quyết định, đặt nền móng cho chiến dịch Bắc phạt.{{sfn|Jordan|1976|pp=42–49}}{{sfn|Kotkin|2014|pp=627–629}}
 
Năm 1926, ba quân phiệt lớn có thái độ thù địch với chính quyền Quốc dân đảng đã liên minh với nhau. Lực lượng [[Ngô Bội Phu]] kiểm soát phía bắc [[Hồ Nam]], [[Hồ Bắc]], và [[Hà Nam]]. Liên quân [[Tôn Truyền Phương]] kiểm soát [[Phúc Kiến]], [[Chiết Giang]], [[Giang Tô]], [[An Huy]] và [[Giang Tây]]. Liên quân mạnh nhất lãnh đạo bởi [[Trương Tác Lâm]], lãnh đạo chính phủ Bắc Dương và quân phiệt [[Phụng hệ]], kiểm soát [[Mãn Châu]], [[Sơn Đông]] và [[Trực Lệ]].{{sfn|Wilbur|1983|page=51}} Để đối diện với chiến dịch Bắc phạt, Trương Tác Lâm cuối cùng đã tập hợp "[[An Quốc quân]]" ({{Lang-zh|c=安國軍|p=Ānguójūn|w=Ankuochün}}; NPA), một liên minh của các quân phiệt miền bắc Trung Quốc.{{sfn|Kwong|2017|pp=149–160}}
 
==Cuộc viễn chinh thứ nhất==