Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ấn khả chứng minh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Tham khảo: replaced: lí → lý using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{chú thích trong bài}}
Dụng ngữ Thiền, '''Ấn khả chứng minh''' (zh. 印可證明; ja. ''inka shōmei''), cũng thường được gọi tắt là '''ấn chứng''' hay '''ấn khả''', là thuật ngữ thường dùng trong [[Thiền tông]],. chỉKhi sựmột xácngườ nhậnthấy củaTính thầy( rằngKiến mônTính), ngộ ra bản tâm chân đệthật của mình, đãtheo hoànđúng tấtpháp, đầyvị đủnày việccần làmđến dướinhờ một vị Thiền sư minh nhãn(đã kiến tính) kiểm tra xem thật sự hướngngười dẫnấy củađã mìnhthấy tính chưa qua những sở ngộ mà vị ấy trình cho vị Thiền sư như các bài kệ tỏ ngộ, các thểkinh nóinghiệm giác "thànhngộ, hay qua những cuộc pháp chiến với vị Thiền sư. Sau đó, nếu thấy vị này đã thật sự ngộ đạo", vị Thiền sư công nhận sự ngộ ấy là đúng.
 
Nếu những vị thầy sử dụng [[công án]] (zh. 公案, ja. ''kōan'') trong chương trình giảng dạy thì việc ấn khả có nghĩa là thiền sinh đã giải tất cả những công án và vị thầy đã hài lòng với các kết quả đạt được. Nếu vị thầy không sử dụng công án thì sự ấn khả đồng nghĩa với sự hài lòng của vị thầy về mức độ thông đạt chân lý của đệ tử. Chỉ sau khi được ấn khả và khi những yếu tố quan trọng khác - ví như khả năng am hiểu người để hướng dẫn họ - đã sẵn có hoặc đã tu luyện thành đạt thì người được ấn khả này mới được hướng dẫn môn đệ trên thiền đạo và tự gọi mình là [[Pháp tự]] (zh. 法嗣) của vị thầy và mang danh hiệu Lão sư (zh. 老師, ja. ''rōshi''). Nhưng ngay khi tất cả những điều kiện trên đã đạt và thiền sinh đã được ấn khả thì việc này không có nghĩa rằng thiền sinh đã chấm dứt việc tu tập trên con đường thiền. Càng nhìn rõ xuyên suốt thiền sinh càng thấy rằng việc tu tập thiền không bao giờ đến nơi cùng tận và kéo dài vô số kiếp. Thiền sư [[Đạo Nguyên Hi Huyền]] bảo rằng ngay cả Phật Thích-ca cũng còn đang trên đường tu tập.