Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mãn Châu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 29:
 
== Ranh giới ==
Mãn Châu hiện nay thường được liên kếthệ vớitới ba [[Tỉnh (Trung Quốc)|tỉnh]] [[Hắc Long Giang]], [[Cát Lâm]] và [[Liêu Ninh]] của Trung Quốc.<ref>[http://www.britannica.com/EBchecked/topic/361449/Manchuria "Manchuria". Encyclopædia Britannica. Encyclopædia Britannica Online. Encyclopædia Britannica Inc., 2012. Web. 17 Jun. 2012]</ref><ref>{{Cite book|url=https://english.cri.cn/7146/2015/04/01/3601s872517.htm|title=In Manchuria: A Village Called Wasteland and the Transformation of Rural China|last=Michael|first=Meyer|date=2016-02-09|publisher=Bloomsbury Press; Reprint edition|isbn=9781620402887|language=en}}</ref>{{refn|This is the sense used, e.g., in the [[World Geographical Scheme for Recording Plant Distributions]].<ref>{{cite book |last=Brummitt |first=R.K. |year=2001 |title=World Geographical Scheme for Recording Plant Distributions: Edition 2 |publisher=International Working Group on Taxonomic Databases For Plant Sciences (TDWG) |url = http://www.nhm.ac.uk/hosted_sites/tdwg/TDWG_geo2.pdf |accessdate = 2006-11-27 |ref=harv |p=12}}</ref>}} Chính quyền bù nhìn Mãn Châu Quốc của đế quốc Nhật Bản trước đây baochiếm gồmmột nhiềukhu vực rộng hơn, gồm các tỉnh [[Thừa Đức, Hà Bắc|Thừa Đức]] (nay là [[Hebei|Hà Bắc]]) và [[Hulunbuir]], [[Hưng An, Nội Mông|Hưng An]], [[Thông Liêu]], và [[Xích Phong]] (nay thuộc [[Nội Mông]]). Khu vực mà nhà Thanh gọi là Mãn Châu ban đầu bao gồm [[Ussuri krai|Ussuri]] và [[Primorsky (vùng)|Primoskiy Krais]] và phần phía nam của tỉnh [[Cáp Nhĩ Tân]]. Các quận này được [[Điều ước Nerchinsk|Hiệp ước Nerchinsk]] năm 1689 thừa nhận là lãnh thổ của nhà Thanh nhưng được nhượng lại cho [[Đế quốc Nga]] với tư cách là Nhượng quyền Amur (Amur Acquisition) trong [[hiệp ước bất bình đẳng]] [[Điều ước Ái Hồn|Aigun]] năm 1858 và [[Công ước Bắc Kinh]] năm 1860. ([[Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa]] [[Xung đột biên giới Trung-Xô|đã gián tiếp đặt câu hỏi về tính hợp pháp của các hiệp ước này trong những năm 1960]] nhưng gần đây đã ký các thỏa thuận như [[Hiệp ước Hữu nghị Trung-Nga (2001)|Hiệp ước Hữu nghị Trung-Nga năm 2001]], khẳng định hiện trạng;<ref>[[2001 Sino-Russian Treaty of Friendship|Sino-Russian Treaty of Friendship]] (2001), Article 6.</ref> một cuộc trao đổi nhỏ dù vậy đã xảy ra vào năm 2004 tại nơi hợp lưu của các con sông [[Amur]] và [[Ussuri]].)<ref>[[Complementary Agreement between the People's Republic of China and the Russian Federation on the Eastern Section of the China-Russia Boundary]] (2004).</ref> Các ý nghĩa khác nhau của Đại Mãn Châu đôi khi còn bao gồm cả đảo [[Sakhalin]], mặc dù không được đề cập đến trong các hiệp ước đã được hiển thị như lãnh thổ Đại Thanh trên các bản đồ về khu vực này của Trung Quốc, Nhật Bản, Nga và Pháp. (Về mặt dân tộc học, hòn đảo đã bị người [[Người Ainu|Ainu]] chiếm đóng cho đến khi họ bị [[Liên Xô]] buộc phải di dời sau năm 1945.)<gallery class="center" widths="180" heights="180">
Tập tin:EB1911 Manchuria.png|Bản đồ ba tỉnh vùng [[Đông Bắc Trung Quốc]] <small>(1911)</small>{{sfnp|''EB''|1911}}
Tập tin:Manchukuo Railmap en.png|Bản đồ [[Mãn Châu Quốc]] và mạng lưới đường sắt, k.{{nbsp}}1945
Dòng 46:
Mãn Châu cũng được gọi là '''Quan Đông''' ({{zh|s=关东|t=關東|p=Guāndōng|first=t}}), nghĩa là "phía đông con đèo", và tương tự là '''Quan Ngoại''' (關外; 关外; ''Guānwài''; "phiá ngoài con đèo"), nhắc đến [[Sơn Hải quan]] ở [[Tần Hoàng Đảo]], ngày nay thuộc [[Hebei|Hà Bắc]], ở tận cùng phía Đông dãy [[Vạn Lý Trường Thành]]. Cách sử dụng này được thấy trong thành ngữ ''[[Sấm Quan Đông]]'' (nghĩa là "Ào ạt đổ vào Quan Đông") đề cập đến sự di cư hàng loạt của [[người Hán]] đến Mãn Châu trong thế kỷ 19 và 20. Tên gọi [[Quan Đông (định hướng)|Quan Đông]] sau đó được sử dụng hẹp hơn cho khu vực [[Quan Đông Châu]] thuộc [[Bán đảo Liêu Đông]]. Không nhầm lẫn với tên gọi tỉnh phía Nam [[Guangdong|Quảng Đông]].
 
Trong triều đại nhà Thanh, khu vực này được gọi là "ba tỉnh miền đông" ({{zh|s=东三省|t=東三省|p=Dōngsānshěng|first=t}}; [[Manchu language|Manchu]]{{nbsp}}{{MongolUnicode|ᡩᡝᡵᡤᡳ<br>ᡳᠯᠠᠨ<br>ᡤᠣᠯᠣ}}, ''Dergi Ilan Golo'')<ref name="giles" /> kể từ năm 1683 khi Cát Lâm và Hắc Long Giang bị tách ra mặc dù mãi đến năm 1907, chúng mới được chuyển thành các tỉnh thực sự.<ref name="giles" /><ref>{{cite book|url=https://books.google.com/?id=3utRAQAAIAAJ&q=chahars+hunghutze&dq=chahars+hunghutze|title=Oriental Affairs: A Monthly Review|year=1935|page=189}}</ref> Những người đứng đầu của ba khu vực là ThốngTổng đốc Hắc Long Giang (Sahaliyan Ula i Jiyanggiyūn), ThốngTổng đốc Cát Lâm (Girin i Jiyanggiyūn), and ThốngTổng đốc Thịnh Kinh (Mukden i Jiyanggiyūn). Khu vực Mãn Châu sau đó được chính quyền [[nhà Thanh]] chuyển đổi thành ba [[Tỉnh (Trung Quốc)|tỉnh]] vào năm 1907. Kể từ đó, cụm từ "Ba tỉnh Đông Bắc" đã được chính quyền nhà Thanh ở Trung Quốc sử dụng để chỉ khu vực này, và chức vị [[Viceroy of the Three Northeast Provinces|Tổng đốc Ba tỉnh Đông Bắc]] (dergi ilan goloi uheri kadalara amban) được thành lập để phụ trách các tỉnh này. Sau cuộc [[Cách mạng Tân Hợi|cách mạng năm 1911]], dẫn đến sự sụp đổ của triều đại nhà Thanh do người Mãn thành lập, tên của khu vực nơi người Mãn bắt nguồn được gọi là "vùng Đông Bắc" trong các tài liệu chính thức của nhà nước [[Trung Hoa Dân Quốc (1912–1949)|Trung Hoa Dân Quốc]] mới thành lập, bên cạnh " Ba tỉnh Đông Bắc ".
 
Trong triều đại [[nhà Minh]], khu vực nơi tộc Nữ Chân sinh sống được gọi là [[Nurgan|Nô Nhi]].<ref>[https://books.google.com/books?id=Wn4iv_RJv8oC&pg=PA55#v=onepage&q&f=false Crossley 1999], p. 55.</ref> Nô Nhi là khu vực của [[Cát Lâm]] hiện đại ở Mãn Châu.
 
== Địa lí và khí hậu ==
Mãn Châu bao gồm chủ yếu phần phía Bắc của khu vực [[nền cổ Hoa Bắc]], có dạng hình phễu, một khu vực rộng lớn với những tầng đất đá có niên đại [[Thời kỳ Tiền Cambri|Tiền Cambri]] được cày xới và bao phủ trải dài trên một diện tích 100 triệu hecta. Nền cổ Hoa Bắc là một lục địa độc lập vào trước [[kỷ Tam Điệp]] và được biết đến là lục địa ở phía cực bắc thế giới trong [[kỷ Than Đá]]. Dãy [[Đại Hưng An]] ở phía Tây và một dãy núi có niên đại từ kỷ Jura<ref>Bogatikov, Oleg Alekseevich (2000); ''Magmatism and Geodynamics: Terrestrial Magmatism throughout the Earth's History''; pp. 150–151. {{ISBN|90-5699-168-X}}</ref> được hình thành do sự va chạm của nền cổ Hoa Bắc với nền cổ [[Siberi (lục địa)|Siberi]], đánh dấu giai đoạn cuối cùng của sự hình thành của [[siêu lục địa]] [[Pangaea]].
[[Tập_tin:Photo_by_Xundaogong_巡道工出品_报恩寺海浪河大弯道K1452_-_panoramio.jpg|nhỏ|250x250px|[[Hải Lãng (sông)|Sông Hải Lãng]] gần thị xã [[Hải Lâm, Mẫu Đơn Giang|Hải Lâm]], tỉnh [[Heilongjiang|Hắc Long Giang]]]]
Không có phần lục địa nào của Mãn Châu bị [[Thời kỳ băng hà|đóng băng]] trong [[kỷ Đệ Tứ]], nhưng địa chất bề mặt của hầu hết các phần địa hình thấp hơn và màu mỡ hơn của Mãn Châu bao gồm các lớp [[hoàng thổ]] rất sâu, được hình thành do sự di chuyển của [[bụi]] và hạt đất sét ([[:en:till]]) bởi gió cho đến khi các hạt hình thành ở các vùng băng giá của dãy [[Himalaya]], [[Dãy núi Côn Lôn|Côn Lôn]] và [[Thiên Sơn]], cũng như các sa mạc [[Sa mạc Gobi|Gobi]] và [[Sa mạc Taklamakan|Taklamakan]].<ref>Kropotkin, Prince P.; "Geology and Geo-Botany of Asia"; in '''Popular Science''', May 1904; pp. 68–69</ref> Các loại đất chủ yếu là đất giàu chất hữu cơ ([[:en:mollisol]]) và các loại đất màu mỡ khác ([[:en:entisol]]), ngoại trừ ở những vùng núi cao hơn, nơi chúng là các địa hình [[:en:orthent]] phát triển kém, cũng như ở phía cực bắc, nơi xảy ra [[Tầng đất đóng băng vĩnh cửu|băng vĩnh cửu]] và [[:en:orthel]] chiếm ưu thế.<ref>Juo, A. S. R. and Franzlübbers, Kathrin Tropical Soils: Properties and Management for Sustainable Agriculture; pp. 118–119; {{ISBN|0-19-511598-8}}</ref>
 
Khí hậu của Mãn Châu có sự tương phản cực đoan theo mùa, từ khí hậu ẩm ướt, gần như nhiệt đới vào mùa hè đến khí hậu Bắc cực có gió và khô vào mùa đông. Mô hình này xảy ra bởi vì vị trí của Mãn Châu trên ranh giới giữa vùng đất liền [[lục địa Á-Âu]] và Thái Bình Dương rộng lớn gây ra sự đảo ngược [[gió mùa]] hoàn toàn.
 
Vào mùa hè, khi mặt đất tăng nhiệt độ nhanh hơn đại dương, áp thấp hình thành ở châu Á và gió ấm, ẩm từ nam đến đông nam mang theo mưa lớn, sấm sét, mang lại lượng mưa hàng năm từ 400 mm (16 in) hoặc ít hơn ở phía tây, đến hơn 1.150 mm (45 in) trên dãy núi [[Dãy núi Trường Bạch|Trường Bạch]].<ref>{{cite web|url=http://www.amlinkint.com/English/travel-to-china/images/about-china-annual-precipit.jpg|title=Average Annual Precipitation in China|archiveurl=https://web.archive.org/web/20100602163920/http://www.amlinkint.com/English/travel-to-china/images/about-china-annual-precipit.jpg|archivedate=2 June 2010|accessdate=2010-05-18|url-status=dead|df=dmy-all}}</ref> Nhiệt độ vào mùa hè trải từ rất ấm áp đến nóng, với cực đại trung bình tháng 7 dao động từ 31°C (88°F) ở phía Nam đến 24°C (75°F) ở cực Bắc.<ref>Kaisha, Tesudo Kabushiki and Manshi, Minami; '''Manchuria: Land of Opportunities'''; pp. 1–2. {{ISBN|1-110-97760-3}}</ref> Ngoại trừ ở phía bắc xa gần sông [[Amur]], độ ẩm cao gây ra sự khó chịu lớn vào thời điểm này trong năm.{{citation needed|date=November 2019}}
 
Tuy nhiên, vào mùa đông, vùng khí áp cao [[Siberia]] rộng lớn gây ra những cơn gió rất lạnh, từ bắc đến bắc có nhiệt độ thấp tới −5°C (23°F) ở cực Nam và −30°C (−22°F) ở phía bắc<ref>Kaisha and Manshi; '''Manchuria'''; pp. 1–2</ref> nơi vùng băng vĩnh cửu không liên tục đến phía bắc [[Hắc Long Giang]]. Tuy nhiên, vì gió từ [[Siberia]] cực kỳ khô, tuyết chỉ rơi vào một vài ngày mỗi mùa đông và không bao giờ quá dày. Điều này giải thích tại sao các vĩ độ tương ứng của Bắc Mỹ bị đóng băng hoàn toàn trong thời kỳ băng hà của Đệ tứ trong khi Mãn Châu, dù lạnh hơn, vẫn luôn quá khô để tạo thành [[sông băng]]<ref>[http://www.eas.slu.edu/People/KChauff/earth_history/4EH-posted.pdf Earth History 2001]{{dead link|date=June 2017|bot=InternetArchiveBot|fix-attempted=yes}} (page 15)</ref>&nbsp;– một trạng thái được tăng cường bởi gió tây mạnh hơn từ bề mặt [[dải băng]] ở châu Âu.
 
== Xem thêm ==