Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bắc phạt (1926–1928)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 47:
Ngày 12/12/1915, Viên Thế Khải trở thành [[Đế quốc Trung Hoa (1915–1916)|hoàng đế]], đặt niên hiệu là Hồng Hiến (洪憲). Vào ngày 25/12, [[Thái Ngạc]], [[Đường Kế Nghiêu]], [[Lý Liệt Quân]], tuyên bố Vân Nam độc lập tại Côn Minh và phát động [[Chiến tranh hộ quốc|phong trào hộ quốc]]. Năm 1916, [[Lưu Hiển Thế]] từ Quý Châu và [[Lục Vinh Đình]] từ Quảng Tây, đô đốc [[Phùng Quốc Chương]] từ Giang Tô, đô đốc [[Lý Thuần]] từ Giang Tây, đô đốc [[Chu Thụy]] từ Chiết Giang, đô đốc [[Thang Hương Minh]] từ Hồ Nam, đô đốc [[Cận Vân Bằng]] từ Sơn Đông, cũng bày tỏ sự phản đối. Vào tháng 3, Viên từ bỏ chế độ quân chủ Hồng Hiến và qua đời vào ngày 6/6/1916. Sau khi Viên qua đời, quân Bắc Dương bị chia rẽ thành nhiều phái, có 3 lực lượng chính là: [[Đoàn Kỳ Thụy]] đứng đầu [[Hoàn hệ]], [[Tào Côn]] đứng đầu [[Trực hệ]], [[Trương Tác Lâm]] đứng đầu [[Phụng hệ]]. Những quân phiệt này gây chiến với nhau để kiểm soát Chính phủ Bắc Dương.
 
Năm 1919, Tôn Trung Sơn cải tổ lực lượng cách mạng thành Quốc dân đảng Trung Quốc. Đầu năm 1920, Tôn Trung Sơn, với sự giúp đỡ của [[Liên Xô]], đã thành lập [[Trường Quân sự Hoàng Phố]] và hợp tác với [[Đảng Cộng sản Trung Quốc]]. Sự tham gia của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong Quốc dân đảng là một kế hoạch chiến lược, thay vì chống đối, những đảng viên cộng sản hoạt động thành các tổ chức bí mật trong Quốc dân đảng. Chia nhóm lãnh đạo Quốc dân đảng thành hai nhóm, liên lạc cánh tả, đả kích cánh hữu, tạo ra sự chia rẽ. Ngày 1/7/1925, sau khi thảo phạt Trần Quýnh Minh, tại Quảng Châu, [[Tưởng Trung Chính]] (Tưởng Giới Thạch) thay đổi [[Đại bản doanh Đại nguyên soái Hải lục Trung Hoa Dân Quốc]] (中華民國陸海軍大元帥大本營) thành [[Chính phủ Quốc dân]], tại Trường quân sự Hoàng Phố thành lập Quân Cách mạng Quốc dân. Hợp tác Quốc-Cộng lần thứ nhất đã thúc đẩy tình hình cách mạng toàn quốc, vào ngày 1/7/1925, Chính phủ Cách mạng Quảng Đông được thành lập tại Quảng Châu, cùng với sự thành lập Quân Cách mạng Quốc dân để chuẩn bị cho Chiến dịch Bắc phạt. Tại Quảng Châu, chính quyền cách mạng với nền tảng chưa được ổn định và các quân phiệt địa phương vẫn còn trên khắp Quảng Đông. Đặc biệt là ở Đông Giang, Trần Quýnh Minh có lực lượng mạnh nhất và là mối đe dọa lớn nhất.
 
Năm 1920, Tào Côn và Đoàn Kỳ Thụy khai chiến với nhau, còn gọi [[Chiến tranh Trực Hoàn]] (直皖战争).
 
Năm 1922, nổ ra [[chiến tranh Phụng Trực lần thứ nhất]] (第一次直奉战争), giữa hai phe Trực hệ do Ngô Bội Phu đứng đầu và Phụng hệ do Trương Tác Lâm đứng đầu.
 
Năm 1924, sau [[chiến tranh Phụng Trực lần thứ hai]], quân Phụng hệ đánh bại Trực hệ. Tháng 10, Phùng Ngọc Trường đưa quân đến Bắc Kinh lật đổ Đại tổng thống Tào Côn.
 
Trong những năm 1920, [[Chính phủ Bắc Dương]] có căn cứ tại Bắc Kinh được quốc tế công nhận là chính phủ hợp pháp của Trung Quốc. Tuy nhiên, phần lớn đất nước không nằm dưới sự kiểm soát của Chính phủ Bắc Dương, mà nằm dưới sự quản lý của quân phiệt địa phương. [[Quốc dân Đảng]] (KMT), đóng tại [[Quảng Châu]], mong muốn trở thành đảng giải phóng dân tộc. Kể từ khi kết thúc [[Phong trào Bảo vệ Hiến pháp]] (護法運動 ''vận động hộ pháp'') năm 1922, Quốc Dân Đảng đã củng cố lực lượng của mình để chuẩn bị cho một cuộc viễn chinh chống lại các quân phiệt phương Bắc ở Bắc Kinh, với mục tiêu thống nhất Trung Quốc.{{sfn|Taylor|2009|pp=30–37}} Sự chuẩn bị này bao gồm việc tận dụng sức mạnh chính trị và quân sự của Quốc Dân Đảng. Trước khi qua đời tháng 3/1925, [[Tôn Trung Sơn]], người sáng lập [[Trung Hoa Dân quốc]] và đồng sáng lập Quốc Dân đảng, người ủng hộ hợp tác Trung-Xô, dẫn tới [[Hợp tác Quốc Cộng|Mặt trận Thống nhất thứ nhất]] với [[Đảng Cộng sản Trung Quốc]] (CPC).{{sfn|Wilbur|1983|page=11}} Quân đội của Quốc Dân đảng là Quốc dân Cách mệnh Quân (NRA).{{sfn|Kwong|2017|pp=149–160}} [[Tưởng Giới Thạch]], người đã nổi lên như được Tôn Trung Sơn hỗ trợ trước năm 1922, được bổ nhiệm làm tư lệnh [[Trường Quân sự Hoàng Phố]] năm 1924, và nhanh chóng nổi lên như một ứng cử viên cho vị trí kế nhiệm của Tôn sau khi ông qua đời.{{sfn|Taylor|2009|page=41}}