Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kanji”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 261:
[[Tập tin:2230 Basic Kanji.svg|phải|300px|nhỏ|Bảng chữ Hán trong nhóm "Thường dụng Hán tự" - tức các chữ Hán thông dụng trong sách báo tiếng Nhật - bao gồm 2.230 chữ Hán, trong đó các chữ Hán trong giảng dạy ("giáo dục Hán tự") in màu đỏ. Theo hệ thống sắp xếp KLD của Halpern trong ''Từ điển cho người học Kanji, Kodansha''.]]
 
Học sinh tiểu học ở Nhật được dạy và cố gắng nắm được 1.006 ký tự kanji cơ bản trong "Kyōiku kanji" (教育漢字 - ''Giáo dục Hán tự'') trước khi kết thúc lớp sáu. Thứ tự các ký tự được học đã được thay đổi. Danh sách ''Kyōiku kanji'' là một phần của danh sách lớn hơn bao gồm 1.945 chữ Hán gọi là "Jōyō kanji" (常用漢字 - ''Thường dụng Hán tự'') - đây là những ký tự cần phải nắm được để có thể đọc tốt sách báo [[tiếng Nhật]]. Các học sinh Nhật thường nắm bắt được danh sách lớn hơn trước khi kết thúc lớp chín.<ref>J. Halpern, "The Kodansha Kanji Learner's Dictionary", p. 38a (2006)</ref> Học sinh tiểu học học các ký tự này bằng cách bắt chước và học các [[bộ (Hán tự)|bộ]].
 
Các học viên học tiếng Nhật như một ngoại ngữ thường phải học chữ kanji mà không nắm được trước những từ vựng liên quan đến chúng. Do vậy, giải pháp cho những học viên này rất đa dạng, từ những phương pháp bắt chước, học thuộc lòng, hay các phương pháp sao cho dễ nhớ hơn, như dùng hình ảnh, hay những cách liên tưởng. Những học viên tiếng Nhật là người nói tiếng Việt thường cố gắng học thuộc cả phiên âm Hán Việt của ký tự đó (trừ những kokuji do người Nhật tự sáng chế) để dễ đoán nghĩa các từ vựng được viết bằng ký tự đó, hoặc một số người học thuộc các nét bộ như khi học tiếng Hán.