Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Minh Mạng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi qua ứng dụng di động Sửa đổi từ ứng dụng Android
Dòng 73:
| chữ ký =
}}
'''Nguyễn Thánh Tổ''' ([[chữ Hán]]: 阮聖祖[[25 tháng 5]] năm [[1791]] – [[20 tháng 1]] năm [[1841]]) hay '''Minh Mệnh,''' là vị [[hoàng đế]] thứ hai của triều đại [[nhà Nguyễn]] nước [[Các tên gọi của nước Việt Nam|Đại Nam]]. Ông trị vì từ năm [[1820]] (Thực tế là từ 1815) đến khi qua đời, được truy tôn miếu hiệu là '''Nguyễn Thánh Tổ''' (阮聖祖), thuỵ hiệu '''Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế''' (聖祖仁皇帝). Trong suốt thời gian trị vì ông chỉ sử dụng một niên hiệu là '''Minh Mạng''' (明命) nên thường được gọi là '''Minh Mạng Đế''' (明命帝). Ông được giới sử gia đương đại đánh giá là 1 vị vua kiệt xuất nhất của triều [[Nhà Nguyễn]], 1 trong các vị vua vĩ đại ở bên [[Việt Nam]].
Ông cũng đã khiến cho 1 vị thế chính trị của cả Việt Nam được nâng cao ở trong khu vực Đông Nam Á và quốc tế thế giới mà ngoại giao Việt Nam được nâng cao rõ rệt,ngài là 1 ông vua nổi tiếng+ đa tài-đức-cảm-tâm:
 
Trong hơn 21 năm trị nước, Minh Mạng ban bố hàng loạt [[đổi mới|cải cách]] về nội trị. Ông đổi tên nước [[Việt Nam]] thành [[Đại Nam]], lập thêm [[Nội các]] và [[Cơ mật viện]] ở [[cố đô Huế|Huế]], bãi bỏ chức Tổng trấn [[Hà Nội|Bắc thành]] và [[Gia Định thành]], đổi trấn thành tỉnh, củng cố chế độ lưu quan ở miền núi. [[Quân đội nhà Nguyễn|Quân đội]] cũng được xây dựng hùng mạnh. Minh Mạng còn cử quan đôn đốc khai hoang ở ven biển [[Bắc Kỳ|Bắc kỳ]] và [[Nam Kỳ|Nam kỳ]]. Ngoài ra, ông rất quan tâm đến việc duy trì nền khoa cử [[Nho giáo]], năm [[1822]] ông mở lại các kì [[thi Hội]], [[thi Đình]] ở kinh đô để tuyển chọn nhân tài. Ông nghiêm cấm truyền bá [[kitô giáo|đạo Cơ Đốc]] vì cho rằng đó là thứ tà đạo làm băng phá hoại truyền thống dân tộc. Về đối ngoại, Minh Mạng không đưa ra cải cách nào, ông tiếp tục duy trì chính sách của [[Gia Long]]: tự cô lập, khước từ mọi giao lưu với [[phương Tây]], cấm người dân buôn bán với ngoại quốc, khiến [[Đại Nam]] dần tụt hậu do không tiếp thu được các thành tựu mới về khoa học kỹ thuật dù ông đôi khi cũng có tư duy là thoáng mở và từng trải đời. Ông từng có ý định bỏ cấm đạo Thiên chúa và mở cửa quốc gia.
 
Thời Minh Mạng, trong đất nước liên tục xảy ra [[bạo loạn|nội loạn]] và chiến tranh. Trong nước liên tiếp xảy ra các cuộc nổi dậy của nông dân chống lại triều đình ([[Phan Bá Vành]], [[Lê Duy Lương]], [[Nông Văn Vân]],… ở miền Bắc và [[Lê Văn Khôi]] ở miền Nam). Trong 21 năm cai trị, đã có tới 234 cuộc nổi dậy chống triều đình trên cả nước, nhà vua phải sai nhiều tướng đánh dẹp rất mệt nhọc. Ông được coi như ông vua nhân trị nhưng tôn trọng luật pháp rồi trừng trị các kẻ xấu.
 
Đối với các nước láng giềng, Minh Mạng sử dụng vũ lực nhiều lần: lập các phủ [[Trấn Ninh]], Lạc Biên, Trấn Định, Trấn Man nhằm khống chế [[Lào|Ai Lao]]; [[Chiến tranh Việt-Xiêm (1833–1834)|đánh bại Xiêm La]]; bảo hộ [[Chân Lạp]], chiếm vùng [[Phnôm Pênh|Nam Vang]] ([[Phnôm Pênh]] ngày nay) và đổi tên thành [[Trấn Tây Thành]]; kết quả là nước Đại Nam thời đó có lãnh thổ rộng hơn cả hiện nay. Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh đó đã làm hao mòn quốc khố nên nhà Nguyễn đã không giữ được các lãnh thổ mới đánh chiếm. Sau khi Minh Mạng mất, [[Đại Nam]] đã phải rút quân khỏi Trấn Tây Thành, chỉ 7 năm sau khi chiếm được vùng này. Nhiều lãnh thổ khác cũng bị [[Xiêm La]] đánh chiếm (nay thuộc về nước [[Lào|Lào),]] )nên lãnh thổ nhà Nguyễn sau thời Minh Mạng bị co hẹp lại, gần giống như Việt Nam hiện nay (Xiêm La cũng bị suy yếu ngay sau đó và bị Anh-Pháp sâu xé nó và phá).
 
==Thân thế==