→Lịch sử: Quốc hiệu Đại Nam tới năm 1839 mới được Minh Mạng công khai. Edmund Roberts ghi rõ năm 1833, nhà Nguyễn yêu cầu được gọi là Wiet Nam (Việt Nam) thay vì tên cũ An Nam.
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→Lịch sử: Quốc hiệu Đại Nam tới năm 1839 mới được Minh Mạng công khai. Edmund Roberts ghi rõ năm 1833, nhà Nguyễn yêu cầu được gọi là Wiet Nam (Việt Nam) thay vì tên cũ An Nam. |
|||
Dòng 9:
Tiếp xúc đầu tiên giữa người Mỹ và Việt là vào năm [[1819]] khi thương nhân [[John White]], mà sử Việt ghi lại là "Hôn Viết" chỉ huy tàu buôn ''Franklin'' vào "Canjeo" ([[cửa Cần Giờ]]) ngày 7 Tháng 6 với ý định lên [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]] buôn bán. Quan địa phương cho biết [[triều đình Huế]] đòi thuyền phải ra [[Đà Nẵng]] chứ không được ghé Sài Gòn. White vì công việc khác lại phải sang [[Philippines]] nên đến 25 Tháng 9 mới trở lại [[Cần Giờ]]. Lần này có lệnh cho phép lên Sài Gòn. Ngày 7 Tháng 10 tàu bỏ neo ở Sài Gòn rồi White nán lại đó ba tháng đến 30 Tháng Giêng 1820 mới rời Việt Nam. Ông có ghi lại mọi sự việc trong thời gian ở sang Việt Nam trong cuốn [[sách]] tựa ''A Voyage to Cochin-China'.<ref name="NMDT">Thái Văn Kiểm. (1958) Người Mỹ đầu tiên tới Việt Nam. ''The Journal of the Vietnamese-American Asociation 3''(3), tr 43-5</ref>
Cuộc tiếp xúc chính thức giữa chính phủ hai nước thì mãi đến năm [[1829]], khi [[Tổng thống Hoa Kỳ|Tổng thống]] [[Andrew Jackson]] mới lên nhậm chức thì [[Bộ Ngoại giao Mỹ]] cử phái bộ do [[Edmund Roberts]] (sử sách Việt ghi là "Nghĩa-đức-môn La-bách") và Đại úy David Geisinger ("Đức-giai Tâm-gia") mang theo dự thảo hiệp định thương mại hầu tìm cách thông thương với nước Cochinchina ([[Nhà Nguyễn|
{{Bài chi tiết|Edmund_Roberts#Cochin-China}}
Đầu tháng 1 năm [[1833]] chiến hạm ''Peacock'' chở phái bộ đến Vũng Lấm (nay thuộc [[Phú Yên]]). Sau nhiều ngày thảo luận với đại diện [[Việt Nam]]<ref>Theo lời của [[Edmund Roberts|Roberts]] thì các quan [[nhà Nguyễn]] đã thông báo cho người Mỹ biết rằng: nước này không còn gọi là [[An Nam]] nữa mà đã đổi tên thành Wietman (Yuènan) [<nowiki/>[[Việt Nam]]], và vua Minh Mệnh xưng là [[Hoàng đế]] chứ không phải [[Vương]]. Tới năm 1839, Minh Mạng mới đổi quốc hiệu thành [[Minh Mạng#Quốc hiệu Đại Nam|Đại Nam]].</ref><ref>The Project Gutenberg EBook of [http://www.gutenberg.org/files/44075/44075-h/44075-h.htm#Page_227 Embassy to the Eastern Courts of Cochin-China, Siam, and Muscat], by Edmund Roberts</ref> là Ngoại lang [[Nguyễn Tri Phương]] và Tư vụ [[Lý Văn Phức]], hiệp định thương mại vẫn không thành. Theo lời của Edmund Roberts thì việc không thành là hoàn toàn do lỗi triều đình nhà Nguyễn, với các thủ tục ngoại giao quá rườm rà, quan chức ủy quyền thương thuyết thì không có ý kiến rõ ràng, lại hay lảng tránh các câu hỏi trực diện do Mỹ nêu ra. Phía
Quốc trưởng nước Nhã Di Lý (nước này ở Tây dương, hoặc gọi [[Hoa Kỳ]], hoặc gọi là Ma Ly Căn [America], hoặc gọi là Anh Cát Lợi Mới [New England] đều là biệt hiệu nước ấy) sai bọn bề tôi là Nghĩa Đức Môn La Bách Đại [Edmund Roberts], Uý Đức Giai Tâm Gia [David Geisinger] (tên hai người) đem quốc thư xin thông thương thuyền ở cửa Vụng Lấm [<nowiki/>[[Xuân Đài (phường)|Vũng Lấm]]] thuộc Phú Yên. Vua sai viên Ngoại lang [[Nguyễn Tri Phương]], Tư vụ [[Lý Văn Phức]] đi hội với quan tỉnh, lên trên thuyền thết tiệc và hỏi ý họ đến đây làm gì. Họ nói : “''Chỉ đến vì muốn giao hiếu và thông thương''” nói năng rất cung kính. Đến lúc dịch thư ra có nhiều chỗ không hợp thể thức.
Vua bảo không cần đệ trình thư ấy. Rồi cho quan quyền lĩnh chức Thương bạc làm tờ trả lời. Đại lược nói : “''Nước ấy muốn xin thông thương, cố nhiên là ta không ngăn trở, nhưng phải tuân theo pháp luật đã định. Từ nay, nếu có đến buôn bán thì cho đỗ ở vụng [[Sơn Trà|Trà Sơn]], tấn sở [[Đà Nẵng]], không được lên bờ làm nhà, vượt quá kỷ luật, rồi giao thư cho họ mà bảo họ đi''”.<ref name=":0">[[Đại Nam thực lục]]. Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007. Tập 03.</ref></blockquote>Năm [[1836]], phái đoàn của Edmund Roberts một lần nữa lại ghé
Mãi đến năm [[1873]], lần này do xúc tiến của triều đình nhà Nguyễn, [[Bùi Viện]] được vua [[Tự Đức]] cử sang Mỹ như một "đại sứ đặc mệnh toàn quyền" để cầu viện tìm cách chống [[Pháp]]. Bùi Viện sau đó đã đi qua [[Yokohama]] ([[Nhật Bản]]) để đáp tàu sang Mỹ, rồi lưu lại đó một năm mới gặp được Tổng thống [[Ulysses Simpson Grant|Ulysses Grant]] (nhiệm kỳ [[1868]]-[[1876]]). Lúc này Pháp và Mỹ đang đụng độ trong trận chiến ở [[México]] nên Mỹ cũng tỏ ý muốn giúp một quốc gia đang bị Pháp uy hiếp. Nhưng Bùi Viện không mang theo [[quốc thư]] nên không đạt được cam kết chính thức. Vì vậy, ông lại quay về Việt Nam trở lại kinh thành Huế. Có được thư ủy nhiệm của vua Tự Đức, Bùi Viện lại xuất dương một lần nữa. Năm [[1875]] ông lại có mặt tại Hoa Kỳ. Có trong tay quốc thư nhưng lại gặp lúc Mỹ và Pháp đã hết thù địch nên Ulysses Grant lại khước từ cam kết giúp [[Tên gọi Việt Nam#Đại Nam|Đại Nam]] đánh Pháp.
Dòng 51:
==Biên niên sử==
*Tháng 1 năm 1833, phái bộ do Edmund Roberts dẫn đầu đến
*Ngày [[10 tháng 5]] năm 1845, thuyền ''Constitution'' (thường gọi là ''Old Ironsides'') của Hoa Kỳ cập bến Đà Nẵng.
*Tháng 7 năm 1873, [[Bùi Viện]] được vua [[Tự Đức]] cử sang Mỹ như một "đại sứ đặc mệnh toàn quyền".
|