Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hương Nghiêm Trí Nhàn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n clean up, replaced: → (8) using AWB
Dòng 1:
{{Infobox religious biography|background=#FFD068|color=black|name=Hương Nghiêm Trí Nhàn<br />[[香嚴智閑]]|image=|caption=Thiền Sư Hương Nghiêm Trí Nhàn|birth name=|alias=|dharma name=|birth_date=?|birth_place=|death_date=898|death_place=|religion=|school=[[Quy Ngưỡng Tông]]|lineage=|title=[[Thiền sư]]|teacher=[[Bách Trượng Hoài Hải]]<br/>[[Quy Sơn Linh Hựu]]|predecessor=[[Bách Trượng Hoài Hải]]<br/>[[Quy Sơn Linh Hựu]]|successor=[[Diên Khánh Pháp Đoan]]|students=[[Diên Khánh Pháp Đoan]]}}'''Hương Nghiêm Trí Nhàn''' (香嚴智閑; C: xiāngyán zhìxián; J: kyōgen chi-kan) (?-898:724-814) là một thiền sư Trung Hoa sống vào đời [[Nhà Đường|Đường]]. Sư thuộc [[Quy Ngưỡng tông|Quy Ngưỡng Tông]] đời thứ hai, nối pháp [[Quy Sơn Linh Hựu|Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu]]. Sự ngộ đạo của sư khá đặc biệt, vì vậy nó được nhắc rất nhiều trong các tùng lâm thiền tông. Từ đó nêu lên cơ phong hoằng hóa bất khả tư nghị của chư Tổ Sư Thiền Tông.
== Cơ duyên hành đạo ==
Sư quê ở [[Thanh Châu]], từ nhỏ chán cảnh trần thế. Sư bèn đi xuất gia, đến tham vấn học đạo ở nhiều nơi.
 
Đầu tiên, sư đến tham học nơi Thiền Sư [[Bách Trượng Hoài Hải]]. Sư học rộng hiểu nhiều, thông suốt nhiều kinh điển, biện luận vô ngại nhưng chưa được ngộ đạo. Sau khi Bách Trượng thị tịch sư đến ở với pháp huynh là Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu- đại đệ tử đắc pháp của Bách Trượng, người sáng lập Tông Quy Ngưỡng.
 
Một hôm, sư đến tham vấn, Quy Sơn hỏi :''Ta nghe sư đệ ở chỗ Tiên sư Bách Trượng thông minh lanh lợi, nhưng ta không hỏi đệ về chỗ học bình sinh, cũng không hỏi về kinh sách. Giờ đây hãy nói thử một câu khi cha mẹ chưa sinh xem.'' Sư không đáp được, bèn về lật tìm hết các kinh sách nhưng vẫn không giải quyết được mối nghi tình này. Sư tự than rằng: ''Bánh vẽ chẳng no bụng đói'' .Rồi đến xin Quy Sơn chỉ bảo, nhưng bị Quy Sơn từ chối bảo: ''Nếu ta nói sư đệ sau này sư đệ sẽ mắng ta, vì ta nói là việc của ta, liên hệ gì đến sư đệ?''. Sư tự than trách bản thân mình yếu kém, tự nói : ''Ðời này không học Phật pháp nữa, làm tăng thường lo cơm lo cháo để khỏi nhọc tâm ,'' rồi về thất đốt hết sách vở. Đến từ biệt Quy Sơn ra đi.
 
Sư vân du đến [[Nam Dương (định hướng)|Núi Nam Dương]] (Nơi di tích của Quốc Sư [[Nam Dương Huệ Trung]]). Tại đây sư chú tâm làm ruộng, quét dọn tháp mộ của Quốc sư và chuyên tâm tu hành. Một hôm sư đang quét lá, lượm hòn đá ném trúng cây tre vang lớn. Sư chợt tỉnh ngộ phá lên cười. Rồi trở về thất tắm gội thấp hương, nhắm hướng Quy Sơn đảnh lễ để cảm tạ. Sư làm bài kệ đai ngộ( Trúc Thiên dịch Việt) :
{|
!一擊忘所知
Dòng 56:
|}
 
Sau khi nghe được bài kệ này. Quy Sơn ấn chứng sư đã ngộ, nhưng [[Ngưỡng Sơn Huệ Tịch|Ngưỡng Sơn]] không chịu nên tìm đến để khảo sư. Sư bèn 2 bài kệ, bài đầu tiên Ngưỡng Sơn bảo sư mới ngộ ý chỉ Như Lai Thiền chứ chưa ngộ ý chỉ Tổ sư Thiền và bảo sư nói bài kệ khác, đến bài thứ hai Ngưỡng Sơn mới công nhận sư đã ngộ ý chỉ Tổ sư Thiền. Qua đây Quy Sơn và Ngưỡng Sơn đều hoàn toàn ấn chứng sư đã đạt đạo:
{|
!Bài kệ Như Lai Thiền
Dòng 79:
Sau sư về giáo hóa tại Hương Nghiêm, học chúng đến rất đông. Sư tùy cơ dạy chúng đơn giản, sư có làm trên 200 bài kệ ứng đối đơn giản không theo quy luật, các nơi truyền bá rất thịnh.
 
Sư thị tịch vào năm đầu (898) niên hiệu Quang Hóa (光化), vua ban thụy hiệu là Tập Đăng Thiền Sư (襲燈禪師).
 
== Pháp Ngữ ==
Sư dạy chúng: "''Ví như&nbsp;người leo lên cây cao, dưới là&nbsp;vực thẳm&nbsp;ngàn thước. Người ấy miệng ngậm cành cây,&nbsp;chân không&nbsp;đạp chỗ nào, tay không bám vào đâu. Chợt có người đến hỏi "ý&nbsp;Tổ sư&nbsp;từ&nbsp;Ấn Độ&nbsp;sang". Nếu mở miệng đáp thì&nbsp;mất mạng&nbsp;nát thân, bằng chẳng đáp thì phụ lòng người hỏi. Chính khi ấy phải làm sao?''" Khi ấy có&nbsp;Thượng tọa&nbsp;Chiêu&nbsp;bước ra&nbsp;thưa: ''Chẳng hỏi khi đã leo lên cây, lúc chưa leo lên cây thì thế nào?'' Sư cười rồi thôi.
 
Công án này được xếp vào tắc thứ năm của tập [[Vô môn quan|Vô Môn Quan]], theo nhiều thiền sư đánh giá thì đây là một công án bí hiểm và ít người có thể lãnh hội được, vì nó khiến cho người tu hành không còn chổ bám trụ vào bất cứ nơi đâu, vượt lên mọi cách thức, lý lẽ thường tình. Dưới đây là nguyên văn công án, lời bình và kệ tụng của [[Thiền sư]] [[Vô Môn Huệ Khai]], bản dịch của Dương Đình Hỷ:<blockquote>Tắc năm : HƯƠNG NGHIÊM LEO CÂY
 
Cử : Hòa thượng Hương Nghiêm nói : Như người trên cây, mồm cắn vào cành cây, tay không vin vào cành, chân không đạp vào cây. Dưới cây có người hỏi ý tổ sư từ Tây sang. Không đáp thì phụ người hỏi. Nếu trả lời thì chôn thân mất mạng. Chính lúc đó phải làm sao?
Dòng 115:
Toàn thân mắt quỷ giương
|}
<blockquote></blockquote>
 
== Nguồn tham khảo ==