Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lãn Ông Huệ Cần”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n clean up, replaced: → (8) using AWB
Dòng 1:
[[Tập tin:Naong Hyegeun.gif|nhỏ|Thiền sư Lãn Ông Huệ Cần]]
Thiền sư '''Lãn Ông Huệ Cần''' (kr: '''나옹혜근''' '''Naong Hyegeun''', zh: 懶翁慧勤; 1320–1376), Thiền sư Triều Tiên nổi tiếng, tông Lâm Tế. Sư được tôn kính là một trong tam đại hòa thượng tài đức dưới triều đại [[Nhà Triều Tiên|Joseon]], hai người còn lại là Thiền sư [[Bạch Vân Cảnh Nhàn]] và [[Thái Cổ Phổ Ngu]]. Cuộc đời hoằng pháp của sư nổi bật qua việc truyền bá [[Lâm Tế tông|Tông Lâm Tế]] và chấn hưng [[Phật giáo]] tại Triều Tiên lúc bấy giờ trong vai trò Quốc sư.
 
== Tiểu sử ==
Dòng 7:
Sư từng đi hành cước đến tại nhiều ngôi chùa nổi tiếng trong nước và siêng năng khổ hạnh tu tập. Đến năm 1344(năm thứ 5 triều đại vua [[Trung Huệ Vương|Chunghye]]), sư đạt sự khai ngộ đầu tiên tại chùa Hoeam-sa, núi Cheonbosan, tỉnh [[Yangju]].
 
Thế kỷ 14, dưới triều đại [[Cao Ly|Goryeo]] là đỉnh cao của cuộc khủng hoảng về chính trị, nhờ sự can thiệp của [[nhà Nguyên]] trong công việc nội bộ của họ cũng như sự thay đổi triều đại trên lục địa khi [[nhà Nguyên]] bị thâu tóm bởi [[nhà Minh]], và xã hội, do sự xâm nhập thường xuyên của [[quân Khăn Đỏ]] và cướp biển Nhật Bản đã gây ra sự rối loạn quá mức. Hơn nữa, với sự gia tăng của phe phái Nho giáo đã mang lại sự tăng cường chỉ trích nhắm vào Phật giáo, điều kiện thuận lợi cho sự tồn tại của Phật giáo bắt đầu thu hẹp. Cố gắng vượt qua cuộc khủng hoảng này, nhiều vị [[Thiền sư]] đã cố gắng truyền bá [[Lâm Tế tông|Tông Lâm Tế]] dưới thời nhà Nguyên vào Triều Tiên.
 
Năm 1347, sư hành cước sang Trung Quốc và tham học với vị đại sư người Ấn Độ hiệu Chỉ Không(Shih-k'ung 指空) tại Pháp Nguyên Tự (Fayuan-si) trong 2 năm. Thiền sư Chỉ Không được biết đến là đời pháp thứ 108 tính từ sơ tổ [[Thiền tông]] là tôn giả [[Ma-ha-ca-diếp|Ma Ha Ca Diếp]]. Sau thời gian tham học với Chỉ Không, sư đến chùa Tịnh Từ(Jingci-si) và tham Thiền với Thiền sư Bình Sơn Sử Lâm (平山處林; Pingshan Chulin, 1279 – 1361) và được vị này [[ấn khả chứng minh]], truyền pháp Lâm Tế Tông và trao cho sư một cây [[Phất tử]] để biểu thị sự truyền pháp. Vào tháng 5 năm 1351, sư cũng nhận được sự truyền pháp từ Thiền sư Chỉ Không cùng với một tấm y [[Cà-sa|ca sa]], một cây phất tử và một lá thư viết bằng [[tiếng Phạn]]. Như vậy, sư đã nhận sự truyền pháp từ hai truyền thống Thiền Lâm Tế Trung Quốc và Thiền tông Ấn Độ.
 
Năm 1355, dưới triều đại của Vua [[Nguyên Huệ Tông]], sư đến cư trú tại Quảng Tế Tự(Guangji-si) và thuyết pháp tại đây. Sư được thái tử nhà Nguyên kính trọng và ban tặng chiếc cà sa vàng cùng với một cây phất tử làm bằng ngà voi.
 
Năm 1358, sư trở lại Triều Tiên và đến hoằng pháp tại nhiều nơi và trú trì tại nhiều ngôi chùa. Đến năm 1361, theo lệnh của [[Cung Mẫn Vương]](gongmin), sư đến hoằng pháp tại các chùa như: Singwang-sa, Cheongpyeong-sa và Hoeam-sa. Và cũng tại thời điểm này, sư chủ trì Đại hội Nghiên cứu về Thiền học. Các kỳ khảo hạch cho các tăng ni-được coi là điều kiện tiên quyết để được thọ [[Giới (Phật giáo)|giới luật]], đã phải chịu đựng sự trì trệ do nhiều cuộc cãi vã sau triều đại của vua [[Triều Tiên Cao Tông|Gojong]]. Tuy nhiên, dưới triều đại của vua [[Cung Mẫn Vương|Gongmin]], dưới sự chủ trì của sư, truyền thống Nghiên cứu và Thực hành Thiền một lần nữa được thiết lập lại. Điều này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng ghóp phần khơi dậy bầu không khí của Phật giáo và kích thích tinh thần tu tập của tăng sĩ.
 
Năm 1371, sư được vua ban danh hiệu Quốc sư Huệ Chiếu và đến trụ trì tại Tùng Quảng tự(Songgwang-sa)- tổ đình nổi tiếng của Tông Tào Khê. Và sau đó đến trụ trì tại chùa Hoeam-sa, qua những nỗ lực khôi phục Phật giáo của mình, sư đã truyền bá và phổ cập các giáo lý Phật giáo đến quần chúng và thu hút sự tham học, tu tập từ nhiều tăng ni, cư sĩ khắp cả nước.
 
Ngày 15 tháng 5 năm 1376, sư thị tịch tại Thần Khê Tự(Silleuk-sa) ở [[Yeoju]], hưởng thọ 56 tuổi, hạ lạp 37 năm. Trong số 2000 đệ tử của sư, nổi bật nhất là Thiền sư Huyễn Am Hỗn Tu (Hwanam Honsu,1320-1392) và Vô Học(Muhak Jacho,1327-1425), những vị Thiền sư sau này được biết đến với những đóng góp to lớn cho nền tảng Phật giáo của triều đại [[Nhà Triều Tiên|Joseon]].