Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyên Nhân Tông”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 67:
Cha ông là [[Đáp Lạt Ma Bát Lạt]], con trai Thái tử [[Chân Kim]] và anh ruột của [[Nguyên Thành Tông]] Thiết Mục Nhĩ. Mẹ ông là [[Đáp Kỷ|Hoằng Cát Lạt Đáp Kỷ]], sinh ra ông và người anh trai [[Nguyên Vũ Tông]] Hải Sơn. Xét vai vế gia tộc, ông là cháu gọi Hốt Tất Liệt bằng ông cố, gọi Chân Kim bằng ông nội, và gọi Thành Tông bằng chú ruột.
 
Bát Đạt vốn là người nhân từ và hiếu thảo. Năm [[1292]], cha Bát Đạt mất, Hải Sơn chuyển đến [[Mạc Bắc]] sinh sống, bỏ lại em trai 7 tuổi. Năm [[1294]], Nguyên Thành Tông lên ngôi, tôn mẹ mình, tức tổ nộimẫu ôngcủa Bát Đạt là [[Bá Lam Dã Khiếp Xích|Khoát Khoát Chân]] làm [[Hoàng thái hậu]]. Thấy Bát Đạt bơ vơ một mình, Thái hậu giữ lại cung nuôi dưỡng, tuyển hiền sĩ [[Lý Mãnh]] dạy học cho Bát Đạt<ref>Yuan shi, 22. p. 480.</ref>. Càng lớn, ông càng trở nên thông minh, nhẫn nại và cứng rắn, khiến cho [[Bốc Lỗ Hãn]], Hoàng hậu của Thành Tông thập phần dè chừng.
Năm [[1305]], Nguyên Thành Tông đau ốm triền miên, để mặc Bốc Lỗ Hãn nhúng tay vào việc triều chính. Hoàng hậu đày mẹ con Bát Đạt tới [[Hoài Châu]]<ref>''The Cambridge History of China'': "Alien regimes and border states, 907-1368", p.505</ref>. Cuộc sống vất vả ở đó đã rèn luyện Bát Đạt trưởng thành sớm, dần dần ông nhìn thấu nỗi khổ của người dân và hiểu được những chính sách vô lý của nhà Nguyên thời bấy giờ. Bát Đạt không ngừng học hỏi nhiều thứ khi ở Hoài Châu. Ông cho rằng cuộc sống ở làng quê còn yên bình hơn khi phải ở [[Đại Đô]] hay [[Thượng Đô]].