Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lý Chính Kỷ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: [[Thể loại:Nhân vật quân sự Nhà Đường → [[Thể loại:Nhân vật quân sự nhà Đường using AWB
Dòng 15:
Nhân Điền Thừa Tự cướp đoạt đất Tương, Vệ thuộc Chiêu Nghĩa<ref>Trị sở thuộc [[An Dương]], [[Hà Nam]], [[Trung Quốc]] hiện nay</ref>, vào năm [[775]], ông cùng Lý Bảo Thần cùng dâng biểu lên triều đình nói tội của Thừa Tự, xin đem quân thảo phạt<ref>''[[Tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:資治通鑑/卷225|quyển 225]]</ref>. Đại Tông cũng muốn hạn chế thế lực phiên trấn nên bằng lòng, tập hợp các trấn dẫn quân đánh Ngụy, trong đó ông Chánh Kỉ cùng quân của Lý Trung Thần ở Hoài Tây đánh từ phía nam. Lý Chính Kỷ thấy triều đình ban thưởng cho quân của Lý Bảo Thần nhiều hơn mình, nên tỏ ra không vừa lòng rồi tạm lui quân về. [[Điền Thừa Tự]] bèn dùng lời lẽ ngon ngọt thuyết phục ông về trấn, và lập liên minh với Lý Bảo Thần. Triều đình không làm gì được, phải xá tội cho Thừa Tự.
 
Năm [[776]], Tiết độ sứ Biện Tống<ref>Trị sở nay thuộc [[Khai Phong]], [[Hà Nam]], [[Trung Quốc]]</ref> [[Điền Thần Ngọc]] hoăng, tướng [[Lý Linh Diệu]] làm lưu hậu, chiếm cứ thành và cùng [[Lý Tăng Huệ]] nổi dậy chống lại triều đình. Lý Chính Kỉ theo điều động dẫn quân thảo phạt Linh Diệu, cùng các tướng triều đình dẹp xong loạn. Sau trận này, ông lấy thêm 5 châu (trong số 8 châu của Biến Tống) là Tào, Bộc, Từ, Duyện, Vận; tổng cộng có 15 châu, trở thành phiên trấn có lãnh địa lớn nhất thời bấy giờ. Ông tự đặt ra pháp lệnh, từng bước li khai triều đình, giảm thuế cho bá tánh trong trấn, các trấn khác đều sợ hãi.
 
Tháng 11 năm [[775]], gia Kiểm giáo tư không, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự. Sau đó ông chuyển trị sở trấn Tri Thanh từ Thanh châu<ref>[[Duy Phường]], [[Sơn Đông]], [[Trung Quốc]] hiện nay</ref> đến Vận châu<ref>[[Thái An]], [[Sơn Đông]], [[Trung Quốc]] hiện nay</ref>.
Dòng 39:
|sau=[[Lý Nạp]]}}
 
[[Thể loại:Nhân vật quân sự Nhànhà Đường]]
[[Thể loại:Sinh năm 733]]
[[Thể loại:Mất năm 781]]