Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyên Minh Tông”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 64:
 
==Tiểu sử==
Ông là con trai cả của [[Nguyên Vũ Tông]] và mộtphi ngườitần phụ[[Nhân nữHiến MôngChương CổThánh -Hoàng Ikhireshậu|Diệc Khất Liệt thị]]. Kể từ khi vua cha lên ngôi trên sự cân bằng không ổn định giữa Vũ Tông, em trai Bát Đạt và mẹ [[Đáp Kỷ]] (Dagi) của gia tộc Framegirad[[Hoằng Cát Lạt thị]], Vũ Tông chỉ định Bát Đạt là Thái tử với điều kiện là ông ta sẽ phải nhường ngôi lại cho Hòa Thế Lạt sau này.
 
Tuy nhiên, sau khi [[Nguyên Nhân Tông]] kế vị ngai vàng năm 1311, Dagi, Temüder và các thành viên khác trong phe Khunggi chọn con trai của ông ta là Thạc Đức Bát Thích làm thái tử thay vì Hòa Thế Lạt vì mẹ của ông xuất thân từ gia tộc Ikhires chứ không phải là gia tộc Khunggirad.
 
===Lưu vong sang Trung Á===
Để đảm bảo sự kế vị của Thạc Đức Bát Thích, Hòa Thế Lạt được trao danh hiệu Chou vương và giáng chức ở [[Vân Nam]] năm 1316, nhưng ông trốn sang [[hãn quốc Sát Hợp Đài]] {(Esen Bukha cai trị}) ở [[Trung Á]], theo lời khuyên của vua cha ngày trước, sau một cuộc nổi dậy thất bại ở [[Thiểm Tây]]. Khi Esen Bukha nghe nói rằng Hòa Thế Lạt đang sống gần vương quốc của mình, ông ta đến chào Thế Lạt. Sau đó, Hòa Thế Lạt được hậu thuẫn bởi các hoàng tử Chagatayid. Trong khi lưu vong ở Trung Á, ông kết hôn với Mailaiti, con gái của Temuder bên nước Qarluq.
 
==Lên ngôi hoàng đế==