Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyên Huệ Tông”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 68:
| chữ ký =
}}
'''Nguyên Huệ Tông''' ([[1320]] – [[1370]]) ([[chữ Hán]]: 元惠宗) tên thật là '''Bột Nhi Chỉ Cân Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ''' là vị hoàng đế thứ 11 và là cuối cùng của triều đại [[Nhà Nguyên]] trong [[lịch sử Trung Quốc]]. Ông có [[miếu hiệu]] là [[Huệ Tông]], [[thụy hiệu]] là '''Tuyên Nhân Phổ Hiếu hoàng đế'''. Huệ Tông chính là con trai của hoàng đế [[Nguyên Minh Tông]]. Ông cũng là vị vuahoàng đế [[người Mông Cổ]] cuối cùng cai trị [[Trung Quốc]] và đã tại vị 36 năm trên lãnh thổ Trung Hoa.
 
Năm 1367, ông để mất đất Giang Nam về tay thủ lĩnh [[quân Khăn Đỏ]] [[Minh Thái Tổ|Chu Nguyên Chương]], chỉ còn cai trị [[Hoa Bắc]]. Một năm sau đó Chu Nguyên Chương lập ra [[nhà Minh]] rồi đưa quân đánh chiếm [[Khanbaliq|Đại Đô]], buộc Nguyên Huệ Tông phải tháo chạy về [[Thượng Đô]], kể từ đó ông chỉ còn được làm vua ở miền đất [[Mông Cổ]].
 
Nguyên Huệ Tông là một vị Phật tử thuần thành của đạo [[Phật giáo Tây Tạng]].
Dòng 76:
==Trước khi làm vua==
[[File:Yuan Huizong.jpg|thumb|left|Tranh vẽ Nguyên Huệ Tông]]
Cha của vuaNguyên Huệ Tông là [[Nguyên Minh Tông]],. vuaÔng chào đời lúc cha của mình còn là một vị thân vương đang trấn ở đất [[Trung Á]]. Mẹ của ông tên là [[Mại Lai Địch]] là người ở bộ tộc [[Cát La Lộc]].
 
Sau khi vua [[Nguyên Thái Định Đế]] qua đời, [[chiến tranh hai đô|nội chiến trong hoàng gia]] bùng phát vào năm 1328, ông theo cha mình vượt qua [[Mông Cổ]] trở về [[Thượng Đô]], tại đây, cha của ông được tôn làm [[hoàng đế]], tức là [[Nguyên Minh Tông]]. Nhưng sau khi vua cha Minh Tông bị sát hại, Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ bị phe phái đối lập đày đến đất [[Cao Ly]] rồi sau đó lại lưu đày ông đến đất [[Quảng Tây]]. Trong thời gian ông bị lưu đày, người mẹ kế của ông là [[Bát Bất Sa]] bị xử tử.
[[Tập tin:YuanEmpressAlbumWifeOfQoshila.jpg|nhỏ|169x169px|trái|Chân dung của Bát Bất Sa - mẹ kế của Nguyên Huệ Tông.]]
 
Sau đó, ngôihoàng vuavị dođược [[Nguyên Văn Tông]] kế nhiệm vào năm 1329, Văn Tông làm vuaTân tớiđế đến năm 1332 thì băng hà. Trước khi chết, Văn Tông muốn nhường ngôi cho con của Nguyên Minh Tông và đáng ra Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ sẽ được nối ngôi, nhưng sau đó triều đình lại lập một người trong tôn thất còn nhỏ tuổi hơn ông tên là Ý Lân Chất Ban, đó là hoàng đế [[Nguyên Ninh Tông]], nhưng Ninh Tông sau đó cũng băng hà sớm khi ở ngôi chỉ có 43 ngày<ref name="TTTTG206">''[[Tục tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:續資治通鑑/卷206|quyển 206.]]</ref>, lúc đó chỉ mới 6 tuổi.
 
Hoàng thái hậu Bốc Đáp Thất Lý thị lâm triều, [[Yên Thiếp Mộc Nhi]] cùng đồng bọn có ý muốn tôn con trai vua Văn Tông là Yên Thiếp Cổ Tư. Thái hậu nói
:''Thiên vị quan trọng biết mấy, con của ta còn nhỏ tuổi sao có thể đảm nhận. Thỏa Hoan Thiếp Mục Nhĩ ở Quảng Tây, năm nay đã 13 tuổi; lại là trưởng tử của Minh Tông, theo lễ có thể được lập''.<ref name="TTTTG206" />.
 
Liền sai người đón Thỏa Hoan ở Tĩnh Giang, rước về Yên Kinh để làm vua. Lúc đó, tại triều đình, ông bị một viên đại thần là [[Yên Thiếp Mộc Nhi]] mưu hại (chính viên đại thần này là kẻ được Nguyên Văn Tông sai ám sát Nguyên Minh Tông - cha của Huệ Tông), nhưng phe ủng hộ của Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ đã giúp ông, và cuối cùng Yên Thiếp Mộc Nhi bị giết, Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ đăng quang làmđế vuavị vào năm 1333, lúc đó ông chỉ mới có 12 tuổi. Do vậy ông được các triều thần Nhà Nguyên thay ông lo chính sự đất nước.
 
Năm 1333, vuaHuệ Tông lần đầu tiên gặp [[Kỳ hoàng hậu|Kỳ thị]] lần đầu tiên, một cung nữ thiếp đến từngười [[Cao Ly]] mà ông đã hết sức sủng ái. NữKỳ thiếpthị nàybị đãcống được gửi đếnsang Trung Quốc cuối những năm 1320 như một phần trongtheo chính sách "cống nạp con người" của các vị vua Cao Ly đượcđối yêuvới cầutriều gửiđình mộtĐại sốNguyên lượngsau nhất[[chiến địnhtranh cácMông Cổ gái- trẻCao tuổiLy]], xinhnhằm đẹplàm đếnthị nướcthiếp Nguyênhầu đểhạ phụchoàng vụthất nhưnhà vợNguyên. lẽHuệ sauTông [[chiếnhết tranhmực Môngsủng Cổái, -phong Caobà ta Lylàm [[Tài nhân]].
 
==Sự cai trị==
===Tranh giành quyền lực thời kỳ đầu===
Vị hoàng đế mới đã bổ nhiệm anh em họ thái tử El Tegüs của mình khi ông được bảo hộ bởi Thái hậu Bốc Đáp Thất Lý, nhưng Huệ Tông lại bị kiểm soát bởi các lãnh chúa ngay cả sau cái chết của Yên Thiếp Mộc Nhi. Trong số đó, [[Bá Nhan]] trở nên mạnh mẽ như Yên Thiếp Mộc Nhi. Ông ta nắm nhiều quyền hành lớn trong triều và đã ra tay đàn áp một cuộc nổi loạn của con trai Yên Thiếp Mộc Nhi là Tang Ki-se. Trong thời kỳ cai trị của ông, ông đã thực hiện một số thanh trừng và cũng đình chỉ hệ thống kiểm tra hoàng gia.

Nguyên Huệ Tông muốn lập Kỳ hoàng hậu làm '''Đệ nhị hoàng hậu''', điều hoàn toàn trái ngược với tiền lệ nhà Nguyên chỉ lập nữ nhân Mông Cổ làm chính thất và Đệ nhị hoàng hậu. Kỳ thị thân là [[người Triều Tiên]] nên bị phản đối kịch liệt. Năm 1339, Kỳ thị sinh ra một đứa conHoàng traitử, người mà Huệ Tông xác định sẽlập làm người kế vị mình,để ôngthuận mớilợi phong thểmẫu phongthân của tađứa con này trở thành '''Đệ nhịNhị hoàng hậu''' vào năm 1340, trong khi [[Bá Nhan Hốt Đô]] vẫn là chính thất Hoàng hậu của ông.
 
Khi Huệ Tông trưởng thành và hiểu được tình hình chính sự, ông đã nhiều lần phản đối sự cai trị của Bá Nhan. Năm 1340, ông liên minh với cháu trai của Bá Nhan là [[Thoát Thoát]], người đang mâu thuẫn với Bá Nhan, và trục xuất Bá Nhan khỏi triều trong một cuộc đảo chính. Ông cũng loại bỏ El Tegüs và Thái hậu Bốc Đáp Thất Lý ra khỏi triều đình. Với sự giúp đỡ của Thoát Thoát, ông cũng mạnh tay thanh trừng các quan chức đã thống trị chính quyền.
Hàng 98 ⟶ 100:
===Thời kì tự chấp chính===
[[Tập tin:Asia in 1345.svg|nhỏ|400px|phải|Lãnh thổ Nhà Nguyên và các nước lân cận, thời Nguyên Huệ Tông, năm 1345]]
Tháng 3 năm 1340, Nguyên Huệ Tông chính thức nắm quyền hành. Công việc đầu tiên của ông đó là trả thù cho vua cha Minh Tôngmẹ kế của mình. Cuối năm 1340, Huệ Tông đã hạ chiếu đập bỏ miếu thờ của [[Nguyên Văn Tông]] đi. Con trai của Văn Tông là [[Yên Thiếp Cổ Tư]] bị Huệ Tông truy lùng đã trốn rasang Cao Ly, cuối cùng ông ta bị Huệ Tông sai người đuổi theo và giết chết ngay ởtại đó.
 
TrảMối thù đãtrả xong, Nguyên Huệ Tông bắt đầu xâytái dựng lại một đất nước đang trên con đường suy tàn và đã trải qua hơn 12 năm mâu thuẫn triều đình (1320 - 1333). Trong 25 năm từ lúckhi [[Nguyên Thành Tông]] qua đời cho đến lúc Nguyên Huệ Tông tại vị, triều Nguyên đã trải qua tới 8 đời hoàng đế. Ngay từ đầu ông cũng có chút nỗ lực để cải cách chính trị. Năm 1341, Nguyên Huệ Tông khôi phục lại chế độ thi cử bị gián đoạn trong thời gian dài để tuyển người hiền tài giúp triều đình. Ông còn sai [[Thoát Thoát]] hoàn thành tất cả ba cuốn [[Liêu sử]], [[Tống sử]] và [[Kim sử]] vào năm 1343.
 
Với việc loại trừ Bá Nhan, Thoát Thoát đã chiếm đoạt quyền lực lớn trong triều. Chính quyền đầu tiên của ông thể hiện tinh thần tươi mới. Người lãnh đạo trẻ nhanh chóng phân biệt chế độ của mình như một thứ hoàn toàn khác với Bá Nhan. Một [[niên hiệu]] mới của vuahoàng đế nhà Nguyên, ''Chí Chính'' (Trung Quốc: 至正), đã cho thấy điều này. Nhiều người trong số những người Trung Quốc đã trở về thủ đô từ hưu trí tự nguyện hoặc từ lưu vong hành chính và hệ thống kiểm tra của hoàng gia đã được phục hồi.
 
Thoát Thoát bất ngờ từ quan với sự chấp thuận của Huệ Tông vào tháng 6 năm 1344, đánh dấu sự kết thúc của chính quyền đầu tiên của ông. Một giai đoạn ngắn ngủi tiếp theo từ 1344 đến 1349 sẽ phát triển một chương trình nghị sự rất khác với Thoát Thoát. Năm 1347, hoàng đế buộc Thoát Thoát sang [[Cam Túc]] với sự giúp đỡ của những cựu sĩ quan của [[Nguyên Minh Tông]] và [[Nguyên Thái Định Đế]].
Hàng 122 ⟶ 124:
==Rút chạy về Bắc==
===Xung đột trong triều===
Càng về cuối những năm làm vua, Nguyên Huệ Tông dần dần mất hứng thú với chính trị và không còn can thiệp vào những cuộc đấu tranh chính trị nữa, chỉ ham mê tửu sắc và chìm đắm trong hậu cung. Con trai của ông là [[Nguyên Chiêu Tông|Ái Du Thức Lý Đạt Lạp]], người đã trở thành [[Thái tử]] năm 1353, đã cố gắng nắm bắt quyền lực và dẫn đến xung đột với các quần thần của vua cha, những người điều hành chính trị thay Huệ Tông. Trong thời gian này quyền lực ngày càng được thực hiện bởi Kỳ hoàng hậu Ki. Bà có một khu vực đặc biệt dành toàn bộ tiền thuế cho việc sử dụng cá nhân của riêng mình, và bà trở nên nổi tiếng với sự tham nhũng và chi tiêu xa hoa của mình trên các cung điện và hàng xa xỉ, khiến bà trở thành một nhân vật đáng ghét. Bản thân ở Cao Ly, gia đình của hoàngKỳ hậu Ki, tất cả đều được hưởng các vị trí có ảnh hưởng nhờ sức mạnh của mình, đều bị ghét vì tham nhũng của họ. Kỳ hậu và thừa tướng đã thuyết phục Ái Du Thức Lý Đạt Lạp lật đổ người sau này. Huệ Tông không thể hòa giải tranh chấp nhưng vẫn làm chủ được tình thế. Năm 1364, lãnh chúa có trụ sở tại Shangxi là Bolad Temür chiếm đóng Đại Đô [[Khanbaliq]] và trục xuất Hoàng Thái tử khỏi cung điện mùa đông. Trong liên minh với lãnh chúa [[Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi]], thái tử đã đánh bại Bolad Temür trong năm tới. Cuộc đấu tranh nội bộ này đã dẫn đến sự suy yếu hơn nữa của quyền lực chính trị và quân sự của chính quyền trung ương. Năm 1365, Huệ Tông cuối cùng đã phong tước cho Kỳ hậu lên thành Đệ Nhất hoàng hậu và thông báo rằng con trai họ sẽ là người đầu tiên trong dòng được kế vị.
 
===Khởi nghĩa loạn lạc===
Hàng 141 ⟶ 143:
Tháng 2 năm thứ 15 (1355), bọn [[Lưu Phúc Thông]] đón con trai Hàn Sơn Đồng là [[Hàn Lâm Nhi]] ở trại Giáp Hà, núi Nãng; tôn lên làm vua, đặt quốc hiệu là Tống, khí thế nhất thời lên cao. Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi đóng giữ Hổ Lao nhằm khống chế nghĩa quân. Tháng 11, Lưu Phúc Thông đưa quân vượt bến đò [[Mạnh Tân]] lên phía bắc, phá Hoài Khánh. Sát Hãn soái quân tiến đánh, nghĩa quân thua chạy. Nhờ công, thăng chức Trung thư [[Bộ Hình|Hình bộ]] thị lang, ban giai Trung nghị đại phu. Khi ấy quân Miêu đóng tại Huỳnh Dương làm phản, Sát Hãn nhân đêm tối tập kích, bắt hết bọn họ, rồi kết trại ở [[Trung Mưu]]. 30 vạn quân Khăn Đỏ đến đánh Trung Mưu, Sát Hãn soái quân ra sức chống trả, nghĩa quân bỏ cờ trống mà chạy, ông đuổi theo hơn 10 dặm, giết chết nghĩa quân vô số. Cũng trong năm 1355, thủ lĩnh nghĩa quân phương nam là Quách Tử Hưng mất, con rể là [[Minh Thái Tổ|Chu Nguyên Chương]] thay Quách Tử Hưng nắm binh quyền, tiếp tục giao tranh với thủ lĩnh nghĩa quân đối địch là Từ Thọ Huy.
 
Năm 1356, Sát Hãn được [[Nguyên Huệ Tông]] thăng chức Trung thư Binh bộ thượng thư, ban giai Gia nghị đại phu. Tháng 9, Lưu Phúc Thông sai bọn Lý Vũ, Thôi Đức phá [[Đồng Quan]], tiến chiếm Thiểm Châu, Quắc Châu, chẹn ngang Hào, [[Hàm Cốc quan|Hàm]]. Hà Nam hành tỉnh Bình chương chánh sự Đáp Thất Bát Đô Lỗ mệnh cho bọn Sát Hãn, Tư Tề đi dẹp. Sát Hãn tiến quân về phía tây, nhân đêm tối chiếm Hào Lăng. Ông tiếp tục tấn công Thiểm Châu, thành kiên cố không hạ được; chuyển sang đánh thành Linh Bảo (thuộc Quắc Châu), hạ được. Lý Vũ, Thôi Đức vượt [[Hoàng Hà]] chạy vào [[Sơn Tây (Trung Quốc)|Sơn Tây]], chiếm [[Bình Lục]], cướp bóc [[An Ấp]], Sát Hãn đuổi quét không tha. Lý Vũ, Thôi Đức lui quân xuống [[Dương Tân]], cùng quân Nguyên chống chọi vài tháng, cuối cùng không địch nổi phải bỏ chạy. Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi nhờ công lao này được gia phong chức Trung phụng đại phu, thêm Hà Bắc hành xu mật viện sự.
 
Năm 1357, Lý Vũ, Thôi Đức công phá nhiều nơi thuộc [[Thiểm Tây]], triều đình nhà Nguyên phái bọn Sát Hãn, Tư Tề, Lưu Cáp Lạt Bất Hoa từ Thiểm Châu, Đồng Quan cứu viện. Bọn họ đánh cho nghĩa quân Khăn Đỏ tan tác, Sát Hãn được gia chức Tư thiện đại phu, Thiểm Tây hành tỉnh tả thừa. Lưu Phúc Thông phái thêm nghĩa quân lên phía bắc [[Tứ Xuyên]], nhắm đến [[Phượng Tường]]. Ông tiến vào Phượng Tường, dụ nghĩa quân đến vây thành. Nghĩa quân phát trọng binh đến đánh, Sát Hãn tự soái thiết kỵ, mai phục cách thành 200 dặm. Quân Nguyên trong ngoài hợp kích, nghĩa quân tan rã, người chết đến vài vạn, thây phơi hàng trăm dặm.
Hàng 187 ⟶ 189:
Khoách Khuếch tuy công cao, nhưng chịu nhiều sự nghi kỵ trong triều. Ông sống nơi quân ngũ đã lâu, cũng không muốn ở lại, nên xin ra ngoài. 2 tháng sau, Khoách Khuếch xin đi bình định [[Trường Giang|Giang]], [[Hoài Hà|Hoài]]. Có chiếu cho phép, phong Hà Nam vương, tổng lĩnh binh mã cả nước, thay [[Thái tử|Hoàng thái tử]] xuất chinh, được đem theo một nửa số quan viên trong triều.
 
Bấy giờ Chu Nguyên Chương vừa diệt Trần Hữu Lượng, thế lực của [[Trương Sĩ Thành]] cũng không nhỏ, Khoách Khuếch không dám khinh suất, truyền hịch gọi 4 tướng quân ở Hoài Nam là bọn Lý Tư Tề, Trương Tư Đạo, Khổng Hưng, Thoát Liệt Bá. Bọn Lý Tư Tề năm xưa cùng khởi binh với Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi, cậy mình ở vai cha chú, không phục. Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi cũng dựa vào quyền tổng lĩnh binh mã cả nước của mình, phái em trai Thoát Nhân Thiếp Mộc Nhi đem 1 cánh quân đến [[Tế Nam]], đề phòng nghĩa quân ở phía nam, tự mình soái quân đánh dẹp bọn Tư Tề. Đôi bên giằng co mấy năm vẫn không có kết quả. Triều đình giảng hòa, Khoách Khuếch tuy đưa quân về phía đông, lại ngầm phái Mạch Cao xâm nhập [[Hà Trung]], hòng lật đổ sào huyệt [[Phượng Tường]] của Tư Tề. Nhưng bộ hạ của Mạch Cao phần lớn là người cũ của Bột La, bèn ép Mạch Cao phản lại Khoách Khuếch, tập kích [[Vệ Huy]], Chương Đức rồi vào triều đổ tội cho ông.
 
Khi xưa Thái tử ở chỗ [[Khoách Khuếch Thiếp Mộc Nhi]], từng muốn bắt chước [[Đường Túc Tông|Đường Túc tông]] lên ngôi tại [[Linh Vũ]], nhưng ông từ chối. Từ đó, Thái tử ngậm hờn, mà Nguyên Huệ tông cũng nghi ngờ ông. Đến nay, triều thần lại đàn hặc ông có tội cứng đầu, Nguyên Huệ tông thì miễn chức thái phó, trung thư tả thừa tướng của ông, lệnh cho ông quay về thực ấp [[Nhữ Nam]], phân chia quân đội của ông cho các tướng; Thái tử thì tự nắm lấy binh quyền, ra mặt đề phòng Khoách Khuếch.