Nguyễn Ánh là cháu nội của chúa [[Nguyễn Phúc Khoát]], vị [[chúa Nguyễn]] áp chót ở [[Đàng Trong]]. Sau khi gia tộc chúa Nguyễn bị [[nhà Tây Sơn|quân Tây Sơn]] lật đổ vào năm [[1777]], ông trốn chạy và bắt đầu cuộc chiến 25 năm với [[Tây Sơn]] để khôi phục ngôi vị.
Về sau, nhân lúc Tây Sơn suy yếu sau cái chết đột ngột của vua [[Quang Trung]], ông đã giữ vững được [[Miền Nam (Việt Nam)#Nam Hà|Nam Hà]] và đến năm [[1802]] thì đánh bại Tây Sơn, lên ngôi [[hoàng đế]], lập ra [[nhà Nguyễn]], kết thúc nhiều thế kỷ nội chiến ở Việt Nam. Triều đại của Gia Long đã chính thức sử dụng quốc hiệu [[Các tên gọi của nước Việt Nam|Việt Nam]]. Ông cũng quyết định đóng kinh đô tại [[Cố đô Huế|Phú Xuân (Huế)]] dù vùng này khá chật hẹp và ít dân, một phần vì lo ngại người dân phía Bắc vẫn còn muốn khôi phục [[nhà Hậu Lê]].<ref>Trần Đức Anh Sơn, tr. 18.</ref> Lãnh thổ nước Việt thời Gia Long về cơ bản được định hình giống như ngày nay, kéo dài từ biên giới với [[Trung Quốc]] tới [[vịnh Thái Lan]], bao gồm cả quần đảo [[Quần đảo Hoàng Sa|Hoàng Sa]] và [[Quần đảo Trường Sa|Trường Sa]], tuy nhiên diện tích miền Trung đã bị thu hẹp lại do Gia Long đã đem vùng [[Bồn Man|Trấn Ninh]] (rộng khoảng 45.000 km²) cắt cho vương quốc [[Vương quốc Viêng Chăn|Vạn Tượng]] để lôi kéo sự ủng hộ của họ (vùng này ngày nay là [[lãnh thổ]] của [[Lào]]).<ref>[[Khâm định Việt sử Thông giám cương mục]], tr. 552.</ref> VớiVề đối ngoại, ông là người mở đường cho sự can thiệp của [[người Pháp]] ở [[Việt Nam]] qua việc cắtmời sỹ quan Pháp giúp [[Bồnxây Man|Trấndựng]] Ninhcác thành trì lớn, huấn luyện [[quân đội]] và khoan thứ cho Làoviệc truyền đạo [[Công giáo tại Việt Nam]]. Về mặt đối nội, nước Việt thời Gia Long làkhông ôngđược vuaổn traođịnh, lãnhdo thổGia đấtLong nướctăng chothuế ngoạikhóa quốcvà nhiềulao thứdịch 2quá nặng nên bị người dân bất bình,<ref name="đượclsvn16" /> chỉ trong lịch18 năm đã có khoảng 90 cuộc khởi nghĩa nổ ra trên cả nước.<ref name="Việt Nam 1858">Lịch sử Việt Nam (chỉ1427-1858), kémtr. việc166-173.</ref> chắtGia nộiLong cũng xóa bỏ các [[cải cách]] tiến bộ của ông[[Nhà Tây Sơn|triều Tây Sơn]] để thay bằng việc áp dụng các chính sách cai trị phong kiến khá bảo thủ, tiêu biểu là việc cấm thương nhân [[Tựngười ĐứcViệt]] đãbuôn cắtbán cảvới ngoại quốc,<ref name="Tarling1"/> soạn [[NamHoàng Việt luật lệ|Hoàng Kỳtriều Lụcluật tỉnhlệ]] cho(còn gọi là "luật Gia Long"), gần như chép nguyên mẫu từ luật của [[thựcnhà Thanh]] ([[Trung Quốc]]) nên khá khắc nghiệt và không được tiến bộ như bộ [[luật Hồng Đức]] của [[nhà Hậu Lê]].<ref name="Nguyễn Khắc Thuần 2005 306">{{harvnb|Nguyễn Khắc Thuần|2005|p=306}}.</ref> Lương Đức Thiệp nhận xét rằng việc Nguyễn Ánh thi hành chính sách bảo thủ, xóa bỏ các cải cách tiến bộ của [[Nhà Tây Sơn|triều Tây Sơn]] đã khiến ''"dân tộc Việt Nam vẫn cứ đứng lỳ trên một nấc tiến hóa với cái kỹ thuật canh tác không thay đổi"''<ref>khảo luận “Xã hội Việt Nam từ sơ sử tới cận đại”, Lương Đức Thiệp</ref> Các chính sách này là nguyên nhân khiến nước Việt thời nhà Nguyễn dần trở nên trì trệ, lạc hậu, không thích ứng kịp với thời đại mới và bị [[đế quốc Pháp]]) xâm chiếm vào nửa thế kỷ sau.<ref name="tcs" />
Về đối ngoại, ông là người mở đường cho sự can thiệp của [[người Pháp]] ở [[Việt Nam]] qua việc mời sỹ quan Pháp giúp [[xây dựng]] các thành trì lớn, huấn luyện [[quân đội]] và khoan thứ cho việc truyền đạo [[Công giáo tại Việt Nam]]. Về mặt đối nội, nước Việt thời Gia Long không được ổn định, do Gia Long tăng thuế khóa và lao dịch quá nặng nên bị người dân bất bình,<ref name="đượclsvn16" /> chỉ trong 18 năm đã có khoảng 90 cuộc khởi nghĩa nổ ra trên cả nước.<ref name="Việt Nam 1858">Lịch sử Việt Nam (1427-1858), tr. 166-173.</ref> Gia Long cũng xóa bỏ các [[cải cách]] tiến bộ của [[Nhà Tây Sơn|triều Tây Sơn]] để thay bằng việc áp dụng các chính sách cai trị phong kiến khá bảo thủ, tiêu biểu là việc cấm thương nhân [[người Việt]] buôn bán với ngoại quốc,<ref name="Tarling1"/> soạn [[Hoàng Việt luật lệ|Hoàng triều luật lệ]] (còn gọi là "luật Gia Long"), gần như chép nguyên mẫu từ luật của [[nhà Thanh]] ([[Trung Quốc]]) nên khá khắc nghiệt và không được tiến bộ như bộ [[luật Hồng Đức]] của [[nhà Hậu Lê]].<ref name="Nguyễn Khắc Thuần 2005 306">{{harvnb|Nguyễn Khắc Thuần|2005|p=306}}.</ref> Lương Đức Thiệp nhận xét rằng việc Nguyễn Ánh thi hành chính sách bảo thủ, xóa bỏ các cải cách tiến bộ của [[Nhà Tây Sơn|triều Tây Sơn]] đã khiến ''"dân tộc Việt Nam vẫn cứ đứng lỳ trên một nấc tiến hóa với cái kỹ thuật canh tác không thay đổi"''<ref>khảo luận “Xã hội Việt Nam từ sơ sử tới cận đại”, Lương Đức Thiệp</ref> Các chính sách này là nguyên nhân khiến nước Việt thời nhà Nguyễn dần trở nên trì trệ, lạc hậu, không thích ứng kịp với thời đại mới và bị [[đế quốc Pháp]] xâm chiếm vào nửa thế kỷ sau.<ref name="tcs" />
==Thời trẻ==
|