Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tây Ban Nha chinh phục Guatemala”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Infobox military conflict
| conflict = TayTây Ban Nha chinh phạt Guatemala
| image = File:Alvarado.jpeg
| image_size = 200px
Dòng 206:
|}
==Cuộc chinh phạt Cao nguyên==
[[File:Postclassicguatemalahighlands.png|thumb|right|350px|Bản đồ Cao nguyên Guatemala ngay trước cuộc chinh phạt của Tây Ban Nha|alt=Vùng cao nguyên Guatemala giáp với đồng bằng Thái Bình Dương về phía nam, với đường bờ biển dọc phía tây nam. Vương quốc Kaqchikel có trái tim ở Iximche, nằm giữa Hồ Atitlán phía tây và thành phố Guatemala hiện đại phía đông. Vương quốc Tzʼutujil tọa lạc ở bờ nam hồ, trải dài tới vùng trũng Thái Bình Dương. Tộc Pipil an cư xa hơn về phía đông dọc theo đồng bằng Thái Bình Dương và tộc Pocomam sinh sống ở cao nguyên phía đông thành phố Guatemala hiện đại. Vương quốc Kʼicheʼ vươn lên phía bắc và phía tây hồ với các khu định cư chính là Xelaju, Totonicapan, Qʼumarkaj, Pismachiʼ và Jakawitz. Vương quốc Mam bao gồm cao nguyên phía tây giáp với Thành phố Mexico hiện đại.]]
Cuộc chinh phạt cao nguyên rất khó khăn bởi nhiều vương quốc định cư vùng này thay vì một chính thể duy nhất như tại Trung Bộ châu Mỹ.[72]<ref>Lovell 2005, pp. 59–60.</ref> Sau khi thủ đô Tenochtitlan của Aztec rơi vào tay Tây Ban Nha năm 1521, Kaqchikel Maya của IimumcheIximche và Kʼicheʼ Maya của Qʼumarkaj đã phái sứ thần tới Hernán Cortés tuyên bố trung thành với nhà cai trị mới của Mexico.<ref name="SharerTraxler06p763">Sharer and Traxler 2006, p. 763.</ref> Năm 1522, Cortés trinh sát vùng Soconusco tại Chiapas, nơi họ gặp các phái đoàn mới từ Iimumche và Qʼumarkaj tại Tuxpán;[74]<ref>Sharer and Traxler 2006, p. 763. Restall and Asselbergs 2007, p. 3.</ref> cả hai vương quốc Maya đều tuyên bố trung thành với vua Tây Ban Nha.[73]<ref name="SharerTraxler06p763" /> Nhưng các đồng minh của Cortés ở Soconusco đã sớm thông báo cho ông rằng Kʼicheʼ và Kaqchikel không thực sự trung thành. Cortés phái Pedro de Alvarado đi với 180 kỵ binh, 300 bộ binh, nỏ, súng hỏa mai, 4 khẩu pháo, một lượng lớn đạn dược và thuốc súng, và hàng ngàn chiến binh Mexico đồng minh từ Tlaxcala, Cholula và các thành phố khác ở miền trung Mexico;[75]<ref>Sharer and Traxler 2006, p. 763. Lovell 2005, p. 58. Matthew 2012, pp. 78–79.</ref> tới Soconusco năm 1523.[73]<ref name="SharerTraxler06p763" /> Pedro de Alvarado là kẻ đằng sau vụ thảm sát quý tộc Aztec tại Tenochtitlan và, theo [[Bartolomé de las Casas]], ông ta còn tiếp tục làm vậy trong cuộc chinh phạt vương quốc Maya ở Guatemala.[76]<ref>Sharer and Traxler 2006, pp. 763–764.</ref> Một số nơi vẫn trung thành với người Tây Ban Nha sau khi cuộc chinh phạt hoàn tất, như người Tzʼutujil và Kʼicheʼ của [[Quetzaltenango]], và cung cấp binh lực mới cho Tây Ban Nha để tiếp tục các cuộc chinh phục. Tuy nhiên, vẫn có những nơi không chịu khuất phục mà tiếp tục khởi nghĩa.<ref>Carmack [77]2001a, pp. 39–40.</ref>
 
===Khuất phục tộc Kʼicheʼ===
{{multiple image
| align = left
| image1 = Lienzo de Tlaxcala Quetzaltenango.gif
| width1 = 212
| alt1 =
| caption1 = Một trang từ cuốn ''Lienzo de Tlaxcala'' cho thấy cuộc xâm lược Quetzaltenango
| image2 = Llanos de Urbina 02.JPG
| width2 = 250
| alt2 =
| caption2 = Thảo nguyên Urbina, nơi diễn ra cuộc chiến quyết định với quân Kʼicheʼ
| footer =
}}
{{quote box
| width = 25em
| align = right
| quote = ...&nbsp;chúng tôi chờ đến lúc chúng chuẩn bị bắn tên, và rồi chúng tôi đâm thẳng vào chúng; do chúng chưa bao giờ thấy ngựa, chúng trở nên sợ hãi, và chúng tôi tiến quân thuận lợi&nbsp;... và chúng chết rất nhiều.
| salign = right
| source = Pedro de Alvarado miêu tả cuộc tiếp cận Quetzaltenango trong lá thư thứ 3 gửi Hernán Cortés<ref>Alvarado 1524, 2007, p. 30.</ref>
}}
Pedro de Alvarado và quân đội của ông tiến dọc theo bờ Thái Bình Dương không bị cản trở cho đến khi tới [[sông Samalá]] phía tây Guatemala. Khu vực này thuộc [[vương quốc Kʼicheʼ]] và quân Kʼicheʼ thất bại trong nỗ lực ngăn Tây Ban Nha vượt sông. Các conquistador cướp bóc các ngôi làng Kicheʼ để răn đe họ.[5] Vào ngày 8 tháng 2 năm 1524, quân của Alvarado giao chiến tại Xetulul, gọi là Zapotitlán bởi các đồng minh Mexico ([[San Francisco Zapotitlán]] hiện đại). Mặc dù chịu nhiều thương vong từ cung thủ Kʼicheʼ, liên quân Tây Ban Nha vẫn xông vào được thị trấn và dựng trại ở khu chợ.[79] Alvarado sau đó quay đầu đi ngược dòng vào dãy [[núi Sierra Madre]] tiến thẳng tới trung tâm của Kʼicheʼ, băng qua đường đèo vào thung lũng [[Quetzaltenango]] màu mỡ. Vào ngày 12 tháng 2 năm 1524, các đồng minh Mexico của Alvarado bị phục kích và đẩy lùi nhưng đội kỵ binh Tây Ban Nha theo sau đánh tan quân Kʼicheʼ và bẻ gãy ý chí họ hoàn toàn. Kỵ binh phân tán quân Kʼicheʼ để lực lượng tiến tới thành phố Xelaju (Quetzaltenango hiện đại) vầ ngạc nhiên là nó đã bị bỏ hoang.[80] Nhiều ghi chép cho rằng hoàng tử Kʼicheʼ là [[Tecun Uman]] đã chết trong trận chiến sau đó gần [[Olintepeque]], nhưng sử liệu Tây Ban Nha cho rằng ít nhất một và có thể hai trong số các lãnh chúa Qʼumarkaj tử trận trong trận chiến khốc liệt tại Quetzaltenango. Cái chết của Tecun Uman được cho là xảy ra trong trận El Pinar,[82] và chuyện dân gian địa phương cho cái chết của ông ở tại Llanos de Urbina (Đồng cỏ Urbina), lúc tiếp cận Quetzaltenango gần ngôi làng Cantel hiện nay.[83] Pedro de Alvarado, trong lá thư thứ ba của ông cho Hernán Cortés, mô tả cái chết của một trong bốn lãnh chúa Qʼumarkaj khi tiếp cận Quetzaltenango. Bức thư được viết ngày 11 tháng 4 năm 1524 và tại Qumarkaj.[82] Gần một tuần sau, vào ngày 18 tháng 2 năm 1524,[84] một đội quân Kʼicheʼ nghênh chiến với Tây Ban Nha tại thung lũng Quetzaltenango và bị đánh bại hoàn toàn; nhiều quý tộc Kʼicheʼ tử trận.[85] Người Kʼicheʼ chết nhiều đến nỗi mà Olintepeque được đặt tên là ''Xequiquel'', [[tiếng Nahualt]] nghĩa là "tắm trong máu".[86] Đầu thế kỷ XVII, cháu trai của vua Kʼicheʼ đã thông báo cho [[corregidor]] (quan chức thực dân cao nhất lúc bấy giờ) rằng quân đội Kʼicheʼ đã hành quân ra khỏi Qʼumarkaj đối đầu với quân xâm lược gồm 30.000 chiến binh, một con số được coi là đáng tin cậy bởi các học giả hiện đại.[87] Trận chiến này làm cạn kiệt quân đội Kʼicheʼ buộc họ phải cầu hòa và cống nạp, mời Pedro de Alvarado tiếp quản thủ đô Qʼumarkaj, được biết đến với cái tên Tecpan Utatlan trong tiếng Nahuatl bởi người Tây Ban Nha. Alvarado rất nghi ngờ về ý định của Kʼicheʼ nhưng đã chấp nhận lời đề nghị và hành quân đến Qʼumarkaj với quân đội của ông
 
Một ngày sau trận Olintepeque, quân đội Tây Ban Nha đến Tzakahá, nơi đầu hàng ngay lập tức. Ở đó, các giáo sĩ Tây Ban Nha Juan Godinez và Juan Díaz đã tiến hành một Công giáo La Mã dưới một mái nhà tạm bợ;[89] địa điểm này đã được chọn để xây dựng nhà thờ đầu tiên ở Guatemala,[90] tôn vinh ''Concepción La Conquistadora''. Tzakahá được đổi tên thành San Luis Salcajá.[89] Thánh lễ Phục sinh đầu tiên tại Guatemala được tổ chức tại nhà thờ mới, người bản xứ quý tộc được rửa tội.[90]
 
[[File:Utatlan1.jpg|thumb|right|[[Qʼumarkaj]] là thủ đô của vương quốc Kʼicheʼ cho tới khi nó bị thiêu rụi bởi Tây Ban Nha.|alt=Grass- and scrub-covered ruins set against a backdrop of low pine forest. A crumbling squat square tower stands behind to the right, all that remains of the Temple of Tohil, with the remains of the walls of the ballcourt to the left in the foreground.]]
Vào tháng 3 năm 1524, Pedro de Alvarado tiến vào Qʼumarkaj theo lời mời của các lãnh chúa Kʼicheʼ sau thất bại thảm khốc của họ,[91] sợ rằng mình đang rơi vào bẫy.[85] Ông dựng lều tại đồng bằng bên ngoài thành phố hơn là chấp nhận chỗ ở bên trong.[92] Lo sợ số lượng lớn các chiến binh Kʼicheʼ tập trung bên ngoài thành phố và không thể tối ưu kỵ binh trên các đường phố hẹp tại Qʼumarkaj, ông cho mời các lãnh chúa của thành phố, Oxib-Keh (ajpop, hoặc vua) và Beleheb- Tzy (ajpop kʼamha, hay vua bầu) đến gặp ông trong trại.[93] Các lãnh chúa mắc mưu Alvarado, ông bắt họ và giữ làm con tin. Các chiến binh Kʼicheʼ, nhìn thấy lãnh chúa của họ bị bắt làm tù binh, đã tấn công các đồng minh bản địa Tây Ban Nha và tìm cách giết một trong những người lính Tây Ban Nha.[94] Lúc này, Alvarado quyết định để các lãnh chúa Kʼicheʼ được rửa tội và thiêu cháy, và sau đó tiến hành thiêu rụi toàn bộ thành phố.[95] Sau khi Qumarkaj bị hành hình và xử tử, Pedro de Alvarado gửi thư tới Iimumche, thủ đô của Kaqchikel, đề xuất một liên minh chống lại quân kháng chiến Kʼicheʼ. Alvarado viết rằng họ đã gửi 4000 chiến binh tới hỗ trợ, mặc dù Kaqchikel ghi rằng họ chỉ gửi 400.[88]
 
Hàng 222 ⟶ 243:
 
===Cuộc chinh phạt Tzʼutujil===
[[File:Lago de Atitlán 2009.JPG|thumb|left|Vương quốc Tzʼutujil có kinh đô nằm bên bờ Hồ Atitlán.|alt=View across hills to a broad lake bathed in a light mist. The mountainous lake shore curves from the left foreground backwards and to the right, with several volcanoes rising from the far shore, framed by a clear blue sky above.]]
Kaqchikel dường như đã liên minh với Tây Ban Nha để đánh bại kẻ thù của họ, Tzʼutujil, có thủ đô là Tecpan Atitlan.[88] Pedro de Alvarado đã phái hai sứ giả Kaqchikel đến Tecpan Atitlan theo yêu cầu của lãnh chúa Kaqchikel, cả hai đều bị Tzʼutujil giết.[105] Khi hay tin này tại Iximche, các conquistador tiến đánh Tzʼutujil cùng với các đồng minh Kaqchikel của họ.[88] Pedro de Alvarado rời Iximche chỉ 5 ngày sau khi ông đến đó, với 60 kỵ binh, 150 bộ binh Tây Ban Nha và một số lượng chiến binh Kaqchikel không rõ. Người Tây Ban Nha và các đồng minh của họ đã đến bờ hồ sau một ngày hành quân vất vả, không gặp trở ngại nào. Không thấy sự phản kháng nào, Alvarado cưỡi ngựa đi trước với 30 kỵ binh dọc theo bờ hồ. Đối diện một hòn đảo đông dân, người Tây Ban Nha cuối cùng cũng chạm mặt các chiến binh Tzʼutujil thù địch và đánh vỡ, phân tán và truy đuổi họ đến một đường đắp hẹp mà các Tzʼutujil tháo chạy qua.[106] Đường đắp quá hẹp cho những con ngựa, do đó họ phải xuống ngựa và băng qua đảo trước khi quân Tzʼutujil phá hủy những cây cầu.[107] Phần còn lại của quân Alvarado sớm bắt kịp nhóm của ông và xông vào đảo thành công. Các Tzʼutujil sống sót nhảy xuống hồ và bơi đến nơi an toàn trên một hòn đảo khác. Người Tây Ban Nha không thể truy đuổi những người sống sót vì 300 chiếc ca-nô do Kaqchikels gửi đi vẫn chưa đến. Trận chiến này diễn ra vào ngày 18 tháng 4.[108]
 
Hàng 227 ⟶ 249:
 
===Kaqchikel khởi nghĩa===
{{multiple image
Pedro de Alvarado bắt đầu đòi vàng từ dân Kaqchikel, làm rạn nứt tình đoàn kết giữa hai dân tộc.[111] Ông yêu cầu các vị vua của họ cống nạp 1000 lá vàng, mỗi lá trị giá 15 peso.[112][nb4]
| align = right
| image1 = Iximché.JPG
| width1 = 250
| alt1 = Quang cảnh đống phế tàn, labyrinthine series of overlapping rectangular basal platforms. Two small pyramid structures dominate the view, with pine forest providing the backdrop.
| caption1 = Phế tích của thành Iximche, bị đốt bởi quân đào ngũ Tây Ban Nha
| image2 = Lienzo de Tlaxcala Iximche.gif
| width2 = 200
| alt2 = Line drawing of a conquistador on horseback charging to the right accompanied by two native warriors on foot in feathered battledress. On the right hand side more simply dressed natives shoot arrows at the attackers.
| caption2 = Một trang từ cuốn ''Lienzo de Tlaxcala'' mô tả cuộc chinh phạt Iximche
| footer =
}}
Pedro de Alvarado bắt đầu đòi vàng từ dân Kaqchikel, làm rạn nứt tình đoàn kết giữa hai dân tộc.<ref name="ScheleMathews99p298">Schele & Mathews 1999, p. 298.</ref> Ông yêu cầu các vị vua của họ cống nạp 1000 lá vàng, mỗi lá trị giá 15 peso.<ref name="Guillemin67p25">Guillemin 1967 p. 25.</ref><ref group="nb">Một ''peso'' là một đồng Tây Ban Nha. Một peso tương đương 8 ''reale'' (nguồn gốc của cụm từ "Tám bất động") hoặc 2 ''tostone''. Trong cuộc chinh phạt, một ''peso'' bao gồn {{convert|4.6|g|oz}} đồng vàng. Lovell 2005, p. 223. Recinos 1952, 1986, p. 52. n. 25.</ref>
 
Một linh mục Kaqchikel tiên tri rằng các vị thần Kaqchikel sẽ tiêu diệt người Tây Ban Nha, khiến người Kaqchikel từ bỏ thành phố của họ và chạy lên rừng núi vào ngày 28 tháng 8 năm 1524 (''7 Ahmak'' trong lịch Kaqchikel). Mười ngày sau, Tây Ban Nha tuyên chiến với Kaqchikel.[111]<ref name="ScheleMathews99p298" /> Hai năm sau, vào ngày 9 tháng 2 năm 1526, một nhóm 16 quân đào ngũ Tây Ban Nha đốt cháy cung điện Ahpo Xahil, cướp phá các đền thờ và bắt cóc một linh mục, hành động mà Kaqchikel đổ lỗi cho Pedro de Alvarado.[113][nb5]<ref>Schele & Mathews 1999, pp. 298, 310, 386 n19.</ref><ref group="nb">Recinos 1998, p. 19. đưa ra con số ''sáu mươi'' kẻ đào ngũ.</ref> Conquistador [[Díaz del Castill]] có kể lại vào năm 1526, ông trở lại Iximche và qua đêm tại "thành phố cổ Guatemala" cùng với Luis Marín và các thành viên khác trong chuyến thám hiểm của Hernán Cortés đến Honduras. Ông báo cáo rằng những ngôi nhà của thành phố vẫn còn nguyên vẹn; ghi chép của ông là những mô tả cuối cùng về thành phố trong tình trạng còn tốt.<ref [114]name="autogenerated298">Schele & Mathews 1999, p. 298. Recinos 1998, p. 19.</ref>
 
{{quote box
| width = 20em
| align = left
| quote = Người Kaqchikel bắt đầu chống lại người Tây Ban Nha. Họ đào hầm và hố bẫy mấy con ngựa và đóng cọc nhọn vào để giết chúng&nbsp;... Rất nhiều lính Tây Ban Nha và ngựa chết trong mấy cái bẫy ngựa này. Nhiều lính Kʼicheʼ và Tzʼutujil cũng chết; theo cách này mà người Kaqchikel hủy diệt tất cả tộc người kia.
| salign = right
| source = Kaqchikels Sử Ký<ref>Recinos 1998, p. 104.</ref>
}}
Người Tây Ban Nha đã thành lập một thị trấn mới tại Tecpán Guatemala gần đó; Tecpán trong tiếng Nahuatl nghĩa là "cung điện", do đó tên của thị trấn mới được dịch là "cung điện giữa các cây".[116] Người Tây Ban Nha từ bỏ Tecpán vào năm 1527, vì các cuộc quấy nhiễu liên tục của Kaqchikel, và di chuyển đến [[Thung lũng Almolonga]] ở phía đông, tái lập thủ đô của họ trên địa điểm quận [[San Miguel Escobar]] ngày nay là [[Vie Vieja]], gần [[Antigua]] Guatemala.[117] Các đồng minh Nahua và Oaxaca của người Tây Ban Nha định cư ở vùng trung tâm hiện nay là Vie Vieja, sau đó được gọi là Almolonga (không nên nhầm lẫn với Almolonga gần Quetzaltenango);[118]) phía đông bắc của Almolonga, mà họ thành lập năm 1530. [119]
 
Hàng 236 ⟶ 277:
 
===Vây hãm Zaculeu===
[[File:Zacuelu3A.jpg|thumb|right|Zaculeu rơi vào tay Gonzalo de Alvarado y Contreras sau cuộc vây hãm kéo dài vài tháng.|alt=A cluster of squat white step pyramids, the tallest of them topped by a shrine with three doorways. In the background is a low mountain ridge.]]
Vào thời điểm chinh phục, phần đông dân Mam sống quanh Xinabahul (cũng đánh vần là ''Chinabjul''), nay là thành phố [[Huehuetenango]], nhưng các thành lũy Zaculeu tại đây đã biến nó thành nơi ẩn náu an toàn trong cuộc chinh phạt.[123] Ngôi thành này bị vây hãm bởi [[Gonzalo de Alvarado y Contreras]], anh trai của conquistador Pedro de Alvarado,[124] năm 1525, với 40 kỵ binh Tây Ban Nha và 80 bộ binh Tây Ban Nha,[125] và khoảng 2.000 đồng minh Mexico và Kʼicheʼ.[126] Gonzalo de Alvarado rời trại Tây Ban Nha tại Tecpán Guatemala vào tháng 7 năm 1525 và hành quân đến thị trấn Totonicapán, nơi ông dùng làm căn cứ tiếp tế. Từ Totonicapán, đoàn thám hiểm đi về phía bắc đến Momostenango, mặc dù bị trì hoãn bởi những cơn mưa lớn. Momostenango nhanh chóng rơi vào tay Tây Ban Nha sau một trận chiến kéo dài 4 tiếng. Ngày hôm sau, Gonzalo de Alvarado hành quân lên Huehuetenango và đối mặt với một đội quân Mam gồm 5.000 chiến binh từ Malacatán gần đó ([[Malacatancito]] hiện đại). Quân đội Mam tiến qua đồng bằng trong đội hình chiến đấu và bị đón đánh bởi đội quân kỵ binh Tây Ban Nha khiến họ rơi vào thế hỗn loạn. Bộ binh sau đó quét sạch tàn quân Mam. Gonzalo de Alvarado xử tử thủ lĩnh Mam là Canil Acab bằng cây thương của ông, quân Mam bị vỡ, các kẻ sống sót chạy trốn lên đồi. Alvarado tiến vào Malacatán và thấy rằng chỉ còn người bệnh và người già bị bỏ lại trong thành. Người Mam trên đồi cuối cùng cũng đầu hàng và được Alvarado chấp nhận. Quân đội Tây Ban Nha nghỉ ngơi vài ngày, sau đó tiếp tục đi đến Huehuetenango bị bỏ hoang. Kaybʼil Bʼalam đã hay tin về bước tiến của Tây Ban Nha và đã rút về thành lũy của ông tại Zaculeu.[125] Alvarado gửi một thông điệp tới Zaculeu đặt ra các điều khoản đầu hàng hòa bình với vua Mam, người đã khước từ. [127]
 
Zaculeu được bảo vệ bởi Kaybʼil Bʼalam,[123] chỉ huy khoảng 6.000 chiến binh tập hợp từ Huehuetenango, Zaculeu, Cuilco và Ixtahuacán. Thành bao quanh ba phía là các khe núi sâu và sở hữu hệ thống tường hào rất đáng gờm. Gonzalo de Alvarado, mặc dù đông hơn 2:1, quyết định tân công lối vào phía bắc yếu hơn. Các chiến binh Mam ban đầu chống cự lại được bộ binh Tây Ban Nha nhưng thất bại trước các cuộc xung phong liên tiếp của kỵ binh. Thủ thành Mam được củng cố bởi khoảng 2.000 chiến binh từ bên trong Zaculeu nhưng không tài nào đẩy Tây Ban Nha ra. Kaybʼil Bʼalam, khi thấy rằng chiến thắng hoàn toàn trên một chiến trường mở là không thể, đã rút quân đội của ông vào thành. Khi Alvarado đào và bao vây pháo đài, một đội quân gồm khoảng 8.000 chiến binh đổ xuống Zaculeu từ vùng núi Cuchumatanes phía bắc, lấy từ các thị trấn liên minh với thành phố.[128] Alvarado ủy thác cho Antonio de Salazar giám sát cuộc bao vây và hành quân về phía bắc để đối đầu với quân đội Mam.[129] Quân Mam rất vô tổ chức, và mặc dù ngang bằng bộ binh Tây Ban Nha và đồng minh, họ không thể chống lại kỵ binh Tây Ban Nha. Cứu quân bị đánh tan và tiêu diệt, cho phép Alvarado trở lại để củng cố cuộc bao vây.[130] Sau vài tháng, dân Mam chết đói. Kaybʼil Bʼalam đành giao nộp thành cho Tây Ban Nha vào giữa tháng 10 năm 1525.[131] 1.800 người Anh-điêng chết đói và những người sống sót ăn xác chết của người đã khuất.[126] Sau khi Zaculeu thất thủ, một đơn vị đồn trú của Tây Ban Nha được thành lập tại Huehuetenango dưới sự chỉ huy của Gonzalo de Solís; Gonzalo de Alvarado trở lại Tecpán Guatemala để báo cáo chiến thắng của mình với anh trai. [130]
 
===Cuộc chinh phục Poqomam===
Năm 1525 Pedro de Alvarado phái một đại đội nhỏ đi chinh phục Mixco Viejo (Chinautla Viejo), thủ đô của Poqomam. [Nb 6]Họ cố thủ trong thành trì. Người Tây Ban Nha cố gắng tiếp cận từ phía tây thông qua một ải hẹp nhưng bị đẩy lui với tổn thất nặng nề. Bản thân Alvarado đã phát động cuộc tấn công thứ hai với 200 đồng minh Tlaxcala nhưng cũng đại bại. Poqomam sau đó nhận được quân tiếp viện, có thể từ Chinautla, và hai đội quân đụng độ trên vùng đất mở bên ngoài thành phố. Trận chiến hỗn loạn và kéo dài hết buổi sáng nhưn kỵ binh Tây Ban Nha lại một lần nữa tỏ ra hữu ích, buộc quân tiếp viện Poqomam phải rút lui.[132] Các tướng lĩnh quân tiếp viện đã đầu hàng Tây Ban Nha ba ngày sau khi họ rút lui và tiết lộ rằng thành phố có một lối vào bí mật dưới dạng một hang động dẫn sang một con sông gần đó, cho phép người dân đến và đi. [133]
 
Biết được lối này, Alvarado cử 40 người đi theo lối ra khỏi hang và tiến hành một cuộc tấn công khác dọc theo khe núi từ phía tây, theo một hàng duy nhất do quá hẹp, với lính bắn nỏ xen kẽ với lính mang súng hỏa mai, mỗi người lính đều có một người đồng hành cầm khiên che chắn mũi tên và đá. Chiến thuật này cho phép người Tây Ban Nha vượt qua đường đèo và lối vào của thành phố. Các chiến binh Poqomam hoảng loạn trong lúc rút lui khỏi thành phố, và bị săn lùng bởi những conquistador chiến thắng và các đồng minh của họ. Những người tìm cách rút lui xuống thung lũng lân cận bị kỵ binh Tây Ban Nha phục kích ở lối ra hang, sô khác bị bắt và đưa trở lại thành phố. Cuộc bao vây kéo dài hơn một tháng và vì sức mạnh phòng thủ của thành phố, Alvarado đã ra lệnh thiêu rụi nó và tản cư dân đến ngôi làng [[Mixco]] thuộc địa mới. [132]
 
===Tái định cư dân Chajoma===
Không có nguồn trực tiếp nào mô tả cuộc chinh phạt Chajoma của người Tây Ban Nha nhưng dường như đây là một chiến dịch dãn ra chứ không phải là một chiến thắng nhanh chóng.[134] Mô tả duy nhất về cuộc chinh phục Chajoma là một ghi chép phụ xuất hiện trong tác phẩm của Francisco Antonio de Fuentes y Guzmán vào thế kỷ 17, rất lâu sau sự kiện này.[135] Sau cuộc chinh phạt, cư dân ở phía đông của vương quốc bị di dời đến San Pedro Sacatepéquez, bao gồm một số cư dân của khu khảo cổ hiện được gọi là [[Mixco Viejo]] (Jilotepeque Viejo).[Nb6] Phần còn lại của dân Mixco Viejo, cùng với cư dân ở phía tây của vương quốc, đã được chuyển đến San Martín Jilotepeque.[134] Chajoma nổi dậy chống Tây Ban Nha vào năm 1526, giao tranh tại Ukubʼil, một địa điểm không rõ nằm đâu đó gần các thị trấn hiện đại [[San Juan Sacatepéquez]] và [[San Pedro Sacatepéquez]]. [136] [nb 7]
 
Trong thời kỳ thuộc địa, hầu hết những người Chajoma còn sống bị buộc phải định cư ở các thị trấn San Juan Sacatepéquez, San Pedro Sacatepéquez và San Martín Jilotepeque do chính sách Tây Ban Nha; người dân đã được chuyển đến bất cứ nơi nào trong ba thị trấn gần nhất với vùng đất trước khi chinh phục của họ. Một số Iimumche Kaqchikel dường như cũng đã được chuyển đến cùng thị trấn.[137] Sau khi di dời, một số người Chajoma đã quay trở lại các khu đất tiền chinh phục của họ, lập ra các khu định cư không chính thức và kích động sự thù địch với Poqomam của Mixco và Chinautla dọc theo biên giới cũ giữa các vương quốc tiền Columbus. Một số khu định cư này cuối cùng đã nhận được sự công nhận chính thức, như San Raimundo gần Sacul. [135]
 
===El Progreso và Zacapa===
Corregimiento thuộc địa Tây Ban Nha của San Cristóbal Acasaguastlán được thành lập năm 1551 với trụ sở tại thị trấn cùng tên, hiện nằm ở phía đông của bộ phận hiện đại của El Progreso.[138] Acasaguastlán là một trong số ít các trung tâm đông dân tiền chinh phục ở mạng lưới sông Motagua, do khí hậu khô cằn. [139] Nó bao phủ một khu vực rộng lớn bao gồm Cubulco, Rabinal, và Salamá , San Agustín de la Real Corona (San Agustín Acasaguastlán hiện đại) và La Magdalena tại El Progreso và Chimalapa, Gualán và Usumatlán đều là những khu định cư vệ tinh của Acasaguastlán.[139] San Cristóbal Acasaguastlán và khu vực xung quanh đã bị thu hẹp thành các khu định cư thuộc địa bởi các tu sĩ của Dòng Dominican; tại thời điểm chinh phục, khu vực này định cư bởi gười Poqomchiʼ Maya và dân Pipil nói tiếng Nahuatl.[138] Vào những năm 1520, ngay sau cuộc chinh phục, người dân bắt đầu đóng thuế cho Vương miện Tây Ban Nha dưới dạng cacao, vải dệt, vàng, bạc và nô lệ. Vài thập kỷ sau số thuế này được trả bằng đậu, bông và ngô.[139] Acasaguastlán lần đầu tiên chấp thuận ''encomienda'' với Diego Salvatierra vào năm 1526. [140]
 
==Chú thích==
{{reflist|group=nb}}
 
==Tham khảo==
{{Tham khảo}}