Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tì-ni-đa-lưu-chi”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →Giáo hóa tại Việt Nam: clean up, replaced: → using AWB |
n Thay đổi theo Thiền Uyển Tập Anh bản Chính Hòa |
||
Dòng 1:
{{Thiền sư Việt Nam}}
'''Tì-ni-đa-lưu-chi''' ({{lang-zh|毘尼多流支}}, {{lang-sa|Vinītaruci}}; ? – [[594]]), cũng được gọi là '''Diệt Hỉ''' (滅喜), là một [[Thiền sư]] người [[Ấn Độ|người nước Thiên Trúc (Bắc Ấn Độ, nước Ô Tràng 烏場國, nay chính là vùng Swat nước Pakistan)]], từng sang [[Trung Quốc]] tham học và là môn đệ đắc pháp của Tam tổ [[Tăng Xán]]. Cuối đời ông xuống phương Nam truyền pháp và được tôn xưng là Tổ khai
Lúc đó, tổ Tăng Xán (僧璨) đang tỵ nan, bèn cầm theo y bát đến chỗ Tổ ẩn cư nơi núi Ty Không (司空山 nay ở tỉnh An Huy, huyện Thái Hồ). Sư gặp Tổ thấy cử chỉ phi phàm, lòng khởi kính tín, đứng trước Tổ, khoanh tay ba lần, Tổ vẫn ngồi yên không nói. Sư ngẫm ngợi suy tư, khoát nhiên như hiểu ra điều gì, bèn xá ba vái, tổ chỉ xoa đầu mà thôi. Sư liền lùi về sau ba bước, nói rằng: “Đệ tử trước giờ không rõ ý tứ, mong Hòa Thượng đại từ bi hứa gả cho đệ tử theo hầu.” Tổ nói: “Người hay may đi về phương Nam, không nên ở đây lâu!”
Sư bèn từ biệt Tổ, dựng tích trượng ở chùa Chế Biệt, đất Quảng Châu, khoảng 6 năm. Ở đây, ngài đã phiên dịch kinh Tượng Đầu Tinh Xá (象頭精舍經) và bộ Báo Nghiệp Sai Biệt (報業差別經). Đến nhà Chu năm thứ 2 niên hiệu Đại Tường, Canh Tý, tháng 3 (sách có thể ghi nhầm, đáng phải là năm thứ 2 niên hiệu Đại Tượng (大象) - Bắc Chu Tuyên đế, 580) đến chùa Pháp Vân, nước ta. Ở đây (vào năm Khai Hoàng, đời nhà Tùy (582) , Ngài đã phiên dịch cuốn kinh Đại Thừa Phương Quảng Tổng Trì (大乘方廣總持經).
==Giáo hóa tại Việt Nam==
Khi ngài mới đến Cổ Châu gặp sư Pháp Hiền mới hỏi: “Thầy tính gì ?” (tính (姓) nghĩa là họ đồng âm với chữ tính (性) trong Phật tính) Pháp Hiền hỏi lại: “Hòa thượng tính gì?” Sư lại hỏi: “Thầy không có tính à?” Pháp Hiền đáp: “Tính thì sao không có, nhưng Hòa thượng làm sao để biết?” Sư cười lớn, rồi nói: “Biết để làm gì?” Pháp Hiền tỉnh ngộ bèn trở thành đệ tử của Sư.
Bỗng một ngày, Sư gọi đệ tử là Pháp Hiền vào buồng: “Này con! Tâm ấn của Bụt ắt không dối lừa, tròn đầy như Thái hư, không thiếu không dư, không đi không đến, không được không mất, không một dị biệt, không một gián đoạn, gốc chỗ vô sinh, cũng không chỗ diệt, vừa không xa dời, cũng chẳng không dời xa. Vì do vọng duyên mà mượn tên giả lập ra chúng mà thôi. Bởi lẽ, bã cõi chư Bụt chỉ có vậy, các vị tổ sử cũng như vậy mà đắc, ta cũng như vậy mà đắc, con cũng như vậy mà đắc, đến các loài hữu tình hay vô tình cũng đắc như vậy. Xưa Tổ ta là Xán Công ấn chứng tâm ấy cho ta. Bảo ta về phương Nam gặp gỡ, không nên ở lâu đất ấy. Trải qua nhiều năm, ở đây ta gặp trò, Quả Phù Huyện kí (果符縣記), trò hãy siêng năng tu trì. Nay đã đến giờ!”
Nói xong, chấp tay mà quy Tây. Đệ tư là Pháp Hiền đồ duy (trà tỳ) ngụ thân ngài thu được xá lợi năm màu. Đó là vào năm Tùy Khai Hoàng thứ 14 (594) Giáp Dần.Vua Lý Thái Tông có bài kệ truy tán Tổ rằng:
創自來南國
聞君久習禪
應開諸佛信
遠合一心源
皓皓楞伽月
芬芬般若蓮
何時當不見
相與話重玄
(Sáng tự lai Nam quốc
Văn quân cửu tập thiền
Ứng khai chư phật tín
Viễn hợp nhất tâm nguyên
Hạo hạo Lăng Già nguyệt
Phân phân Bát-nhã liên
Hà thời đương bất kiến
Tương dữ thoại trùng huyền)
Trăng Lăng già vằng vặc
Sen Bát-nhã ngạt ngào
Bao giờ được tương kiến
Đàm đạo huyền cùng nhau
(Nguyễn Lang dịch)
Người ta cho rằng Sư là tổ [[Thiền tông Việt Nam]]. Nhưng cũng có khuynh hướng cho rằng [[Khang Tăng Hội]] mới là người khởi xướng dòng thiền tại [[Giao Chỉ]]. Dòng Thiền Tì-ni-đa Lưu-chi lấy kinh ''[[Tượng đầu tinh xá]]'' làm nền tảng, chú trọng tư tưởng [[Bát-nhã]] và tu tập thiền quán. Phái thiền này để lại ảnh hưởng rất lớn lên các vua đời [[nhà Lý]] như [[Lý Thái Tông]].
|