Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đường cơ sở (biển)”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 6:
*Đường cơ sở thông thường
===Đường cơ sở thẳng===
Được xác định theo phương pháp nối liền các điểm thích hợp được lựa chọn tại những điểm ngoài cùng nhất nhô ra biển tại mức nước [[thủy triều]] thấp nhất (trung bình nhiều năm). Trước khi được [[pháp điển hóa]] thành các điều khoản của các [[điều ước quốc tế]] thì nó là
*Theo điều 7 khoản 7$5 của Công ước 1982 thì quốc gia ven biển có thể tính đến lợi ích kinh tế riêng biệt của khu vực đó mà tầm quan trọng của nó đã được chứng minh rõ ràng thông qua quá trình sử dụng lâu dài.
Với phương pháp này cần lưu ý đến việc lựa chọn các điểm xuất phát, không được chọn các điểm thuộc các bãi nửa nổi nửa chìm (các bãi nổi trên biển có đặc tính nổi khi thủy triều xuống, chìm khi thủy triều lên do địa hình không bằng phẳng hoặc thoải đều), trừ trường hợp ở đó có [[đèn biển]] hoặc các thiết bị [[hoa tiêu]] khác thường xuyên nhô lên trên mặt nước hay việc vạch đường cơ sở đó đã được thừa nhận chung của quốc tế. Việc này phải bảo đảm không làm cho [[lãnh hải]] của quốc gia khác bị tách ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của họ hay biển cả.
===Đường cơ sở thông thường===
Là ngấn nước thủy triều thấp nhất (trung bình nhiều năm) dọc theo bờ biển đã được thể hiện trên các [[hải đồ]] có [[tỷ lệ xích]] lớn đã được quốc gia ven biển chính thức công nhận. Đối với các [[đảo]] [[san hô]] hay đảo có đá ngầm ven bờ bao quanh, phương pháp này cũng được áp dụng. Ưu điểm của phương pháp này là phản ánh đúng đắn hơn đường bờ biển thực tế của các quốc gia, hạn chế sự mở rộng các vùng biển thuộc quyền tài phán của họ. Hạn chế của nó là khó áp dụng trong thực tế, nhất là đối với các vùng có bờ biển khúc khuỷu.
|