Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lính tập”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Vaputin (thảo luận | đóng góp)
n Bổ sung
Dòng 49:
Năm 1882 khi vụ [[Henri Rivière]] đem quân ra đánh phá [[Bắc Kỳ]] rồi bị [[trận Cầu Giấy|mai phục]] chết ở [[Cầu Giấy]] vào Tháng Năm năm 1883 thì [[thống soái Nam Kỳ]] mới có lệnh chuyển lính khố đỏ Nam Kỳ ra Bắc để giúp quân đội Pháp. Trận đánh [[trận Sơn Tây (1883)|thành Sơn Tây]] được xem là trận giao chiến đầu tiên của lính khố đỏ. Sang năm 1884 với sắc lệnh ngày 13 Tháng Năm thì mới lập thêm đội lính khố đỏ Bắc Kỳ, chủ yếu mộ lính từ cộng đồng giáo dân theo [[thiên Chúa giáo|đạo Thiên Chúa]]; ít lâu sau thì người Pháp mở rộng việc thu nạp, không phân biệt lương dân hay giáo dân.
 
Đội lính khố đỏ Bắc Kỳ đông hơn, tổ chức thành bốn [[trung đoàn]] (''regiment'') với tổng số 14.000 lính<ref>Hoàng Cơ Thụy. tr 1399</ref> trong khi lính Nam Kỳ chỉ có một trung đoàn. Mỗi trung đoàn có bốn tiểu đoàn (''bataillon'') 1.000 người. Năm 1895 thì tăng lên thành năm trung đoàn lính khố đỏ Bắc Kỳ. Trung đoàn thứ năm có một số lớn dân thiểu số gốc [[Người Tày|Thổ]] và [[người Mường|Mường]]. Như vậy tới năm 1886, lực lượng lính tập bản xứ chiếm tới một nửa trong số khoảng 30 ngàn quân Pháp có mặt tại Bắc Kỳ, tạo điều kiện cho [[khâm sứ Trung Kỳ|Khâm sứ]] Pháp [[Paul Bert]] có thể rút dần một số đơn vị lính Âu về nước<ref>Karl Hack and Tobias Rettig, trang 137</ref>.Lính khố đỏ Nam kỳ tới năm 1905 cũng có ít nhất 4 trung đoàn.
 
Trong số các trung đoàn bộ binh Bắc kỳ, ba trung đoàn đầu tiên thuộc biên chế do Hải quân Pháp trả lương; trung đoàn thứ tư thuộc Bộ Binh. Ngoài tra, tồn tại trong một thời gian ngắn trước khi bị giải tán, còn có một lực lượng lính Truy kích An Nam (''Chasseurs annamites''), lương trích từ ngân khố của [[triều đình Huế]].