Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vương Chính Quân”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 5:
|chức vị= [[Hoàng hậu]] [[nhà Hán]]
|tại vị = [[46 TCN]] - [[33 TCN]]
|tiền nhiệm= [[Hiếu Tuyên Vương hoàng hậu|<font color="grey">Hiếu Tuyên Vương
|kế nhiệm= [[Hứa hoàng hậu (Hán Thành Đế)|<font color="blue">Phế hậu Hứa thị</font>]]
|chức vị 1= [[Hoàng thái hậu]] [[nhà Hán]]
Dòng 27:
}}
'''Vương Chính Quân''' ([[chữ Hán]]: 王政君; [[71 TCN]] - [[3 tháng 2]], [[13]]), cũng được gọi '''Nguyên hậu''' (元后), '''Hán Nguyên hậu''' (漢元后), '''Hiếu Nguyên hậu''' (孝元后), '''Tân thất Văn mẫu''' (新室文母), '''Hiếu Nguyên Vương
Hoàng hậu Vương Chính Quân có vai trò chính trị chủ chốt trong suốt các triều đại của Hán Nguyên Đế, Hán Thành Đế, [[Hán Ai Đế]], [[Hán Bình Đế]] và [[Nhũ Tử Anh]]. Bà được các sử gia đánh giá là khiêm nhường không có vẻ chuyên quyền, khi cháu bà là [[Vương Mãng]] cướp ngôi thì ra sức trách cứ, với hành động nổi tiếng là ném [[ngọc tỷ truyền quốc]], khiến miếng ngọc này bị sứt mất một góc, phải dùng vàng trám lại. Tuy nhiên, tội lỗi của Vương Chính Quân đối với triều đại này chính là việc quá mức hưởng lạc, không nhạy bén về chính trị, mặc nhiên trọng dụng ngoại thích họ Vương như [[Vương Phượng (Tây Hán)|Vương Phượng]] và Vương Mãng, khiến ngoại thích hoành hành, dẫn tới lũng đoạn triều chính của nhà Hán. Việc Vương Mãng có thể cướp ngôi phần nhiều ở việc Vương Chính Quân đã quá mức sa đà vào hưởng lạc mà không có bất kì sự can thiệp hiệu quả nào.
Bà là một trong những vị Hoàng hậu mệnh thọ nhất trong [[lịch sử Trung Quốc]], cũng là một trong những Hoàng hậu chính vị lâu nhất, bao gồm làm [[Hoàng hậu]], [[Hoàng thái hậu]] và [[Thái hoàng thái hậu]], tổng cộng 54 năm ([[46 TCN]] - [[8]]), chỉ thua [[Hiếu Huệ Chương
==Thân thế==
Dòng 38:
Cụ nội Vương Chính Quân là [[Vương Toại]] (王遂), cháu nội của Điền An, thời [[Hán Văn Đế]] cư trú tại huyện [[Bình Lăng]], [[Sơn Đông]]. Vương Toại sinh ra [[Vương Hạ]] (王贺), làm Tú y nội sử thời [[Hán Vũ Đế]]. Cha Vương Chính Quân là [[Vương Cấm]] (王禁), biểu tự ''Trĩ Quân'' (稚君), đương khi giữ chức Đình uý sử nhà Tây Hán, đương khi đó ở huyện [[Nguyên Thành]], [[quận Ngụy]] (魏郡元城县); nay là phía Đông của huyện [[Đại Danh]], thành phố [[Hàm Đan]] thuộc tỉnh [[Hà Bắc (Trung Quốc)|Hà Bắc, Trung Quốc]]. Vương Cấm lấy [[Lý Thân (Tây Hán)|Lý Thân]] (李親), con gái của gia tộc họ Lý ở [[Ngụy quận]], sinh ra [[Vương Phượng (Tây Hán)|Vương Phượng]], Vương Chính Quân cùng [[Vương Sùng]] (王崇). Đương khi, Lý thị là chính thê của Vương Cấm, sau do ghen ghét với thiếp của Cấm mà li dị, về sau cải giá lấy [[Cẩu Tân]] (苟宾) tại quận Hà Nội<ref>《汉书·元后传》 母,适妻,魏郡李氏女也。后以妒去,更嫁为河内苟宾妻。</ref>.
Lúc mang thai Vương Chính Quân, mẹ bà nằm [[mộng]] thấy [[mặt trăng]] rơi vào trước [[ngực]]. Mới lên 10, Vương Chính Quân đã nổi tiếng quốc sắc giai nhân, bà thông minh, thuần thục lễ tiết, đầy đủ những ưu điểm mà các thiếu nữ thời ấy cần có. Khi bà tầm 14 đến 15 tuổi, là lúc có thể lấy chồng, Vương Cấm dạm mối mấy nhà, nhưng khi chưa kịp làm hôn lễ thì người chồng sắp cưới đều chết bất đắc kỳ tử. Sau đó Vương Cấm nhận lời cho bà về làm thiếp của Đông Bình vương, thế nhưng Đông Bình vương chuẩn bị sính lễ xong, còn chưa kịp chọn ngày lành để làm lễ cưới thì chết<ref>Nguyễn Tôn Nhan, sách đã dẫn, tr 75</ref>. Vương Cấm sợ mạng con mình sát phu, nên mời đạo sĩ về coi tướng. Vị đạo sĩ hạ thấp giọng đầy bí ẩn:「''“Mạng đại quý, người thường đâu có phúc hưởng”''」, đến Vương gia còn không có phúc hưởng thì mệnh sang đến độ nào nữa, thế là bà được sư gia mời về dạy kèm thông thạo cầm kỳ thi hoạ, đợi trở thành người trên cả muôn người. Khi Vương Chính Quân được 18 tuổi, có lệnh tuyển Lương gia tử (''Con nhà đàng hoàng'') khoảng từ 13 đến 20 tuổi, bà là một trong số các cô gái ở huyện Nguyên Thành được chọn vào cung, trở thành [[Gia nhân tử]]<ref>《汉书》:初,李亲任政君在身,梦月入其怀。及壮大,婉顺得妇人道。尝许嫁,未行,所许者死。后东平王聘政君为姬,未入,王薨。禁独怪之,使卜数者相政君,“当大贵,不可言。”禁心以为然,乃教书,学鼓琴。五凤中,献政君,年十八矣,入掖庭为家人子。</ref>.
== Nhập cung Hán ==
=== Sinh hạ Thái Tôn ===
Bấy giờ, Thái tử [[Lưu Thích]] không có [[Thái tử phi]], chỉ có một người có danh phận là Tư Mã lương đệ. Không lâu sau, Lương đệ Tư Mã thị bị ốm qua đời, Lưu Thích rất đau buồn thành bệnh. Hán Tuyên Đế lo lắng, bèn sai [[Hiếu Tuyên Vương hoàng hậu|Vương
Vương
Năm Cam Lộ thứ 3 ([[51 TCN]]), bà sinh được con trai là [[Hán Thành Đế|Lưu Ngao]]<ref name="ntn77"/>, là con trai trưởng của Thái tử Lưu Thích. Hán Tuyên Đế có được cháu nội khỏe mạnh thì rất vui mừng, tự mình đặt tên cho hoàng tôn [[biểu tự]] là '''Thái Tôn''' (太孫), lúc nào cũng mang theo trên người<ref>《汉书》:甘露三年,生成帝于甲馆画堂,为世适皇孙。宣帝爱之,自名曰骜,字太孙,常置左右。</ref>. Vào lúc này, do sinh được Thái Tôn, Vương Chính Quân có địa vị khá cao, tuy không phải trực tiếp được gọi là Thái tử phi, song vẫn được gọi là
=== Hoàng hậu nhà Hán ===
Năm Hoàng Long nguyên niên ([[49 TCN]]), Hán Tuyên Đế băng hà. Thái tử Lưu Thích lên nối ngôi, tức là [[Hán Nguyên Đế]]. Con trai của Vương Chính Quân là Hoàng trưởng tử Lưu Ngao được lập làm [[Hoàng thái tử]], mẹ của Thái tử là Vương Chính Quân được phong làm [[Tiệp dư]], liền 3 ngày sau thì được lập làm [[Hoàng hậu]]. Cha của Hoàng hậu là Vương Cấm được phong ''Dương Bình hầu'' (阳平侯), em trai Cấm là [[Vương Hoằng (Tây Hán)|Vương Hoằng]] (王弘) làm đến ''Trường Lạc vệ úy'' (长乐卫尉). Sau đó Vương Cấm chết, thụy ''"Khoảnh hầu"'' (顷侯), con trai Vương Phượng tập tước, làm đến [[Thị trung]]<ref>《汉书》:后三年,宣帝崩,太子即位,是为孝元帝。立太孙为太子,以母王妃为婕妤,封父禁为阳平侯。后三日,婕妤立为皇后,禁位特进,禁弟弘至长乐卫尉。永光二年,禁薨,谥曰顷侯。长子凤嗣侯,为卫尉侍中</ref>.▼
Vương Chính Quân từ khi làm Hoàng hậu, không còn được Hán Nguyên Đế sủng ái, cho nên Nguyên Đế cũng tỏ ra không thích Thái tử. Bên cạnh Vương
▲Con trai Chính Quân là Hoàng trưởng tử Lưu Ngao được lập làm [[Hoàng thái tử]], mẹ của Thái tử là Vương Chính Quân được phong làm [[Tiệp dư]], liền 3 ngày sau thì được lập làm [[Hoàng hậu]]. Cha của Hoàng hậu là Vương Cấm được phong ''Dương Bình hầu'' (阳平侯), em trai Cấm là [[Vương Hoằng (Tây Hán)|Vương Hoằng]] (王弘) làm đến ''Trường Lạc vệ úy'' (长乐卫尉). Sau đó Vương Cấm chết, thụy ''"Khoảnh hầu"'' (顷侯), con trai Vương Phượng tập tước, làm đến [[Thị trung]]<ref>《汉书》:后三年,宣帝崩,太子即位,是为孝元帝。立太孙为太子,以母王妃为婕妤,封父禁为阳平侯。后三日,婕妤立为皇后,禁位特进,禁弟弘至长乐卫尉。永光二年,禁薨,谥曰顷侯。长子凤嗣侯,为卫尉侍中</ref>.
Năm Kiến Chiêu thứ 4 ([[35 TCN]]), em trai út của Nguyên Đế là Trung Sơn vương [[Lưu Cánh]] mất, thế nhưng Thái tử Lưu Ngao không thể hiện sự đau buồn nào. Trong khi đó, Lưu Cánh cùng Thái tử cùng tuổi và đã chơi cùng nhau từ thuở còn nhỏ, điều này khiến Nguyên Đế thất vọng với Thái tử, nói:「''"Nào có người không có nhân hiếu mà có thể phụng sự tông miếu, là cha mẹ của trăm họ chứ?!"''」. Cận thần [[Sử Đan]] (史丹) vốn là hầu cận Hán Nguyên Đế, lập tức bỏ mũ xuống, dập đầu nói:「''"Thần đích xác thấy bệ hạ bi thương Trung Sơn vương, bởi vì thương cảm mà thương thân. Buổi sáng Thái tử chuẩn bị tiến kiến, thần tự mình dặn dò đừng khóc, để tránh bệ hạ thương cảm. Tội ở thần hạ, đáng chết"''」. Hán Nguyên Đế nghe như vậy mới không tức giận nữa<ref>《汉书·卷八十二王·商史丹傅喜传第五十二》:其后,中山哀王薨,太子前吊。哀王者,帝之少弟,与太子游学相长大。上望见太子,感念哀王,悲不能自止。太子既至前,不哀。上大恨曰:“安有人不慈仁而可奉宗庙为民父母者乎!”上以责谓丹。丹免冠谢上曰:“臣诚见陛下哀痛中山王,至以感损。向者太子当进见,臣窃戒属毋涕泣,感伤陛下。罪乃在臣,当死。”上以为然,意乃解。丹之辅相,皆此类也。</ref>.▼
▲Vương Chính Quân từ khi làm Hoàng hậu, không còn được Hán Nguyên Đế sủng ái, cho nên Nguyên Đế cũng tỏ ra không thích Thái tử. Bên cạnh Vương hoàng hậu, Nguyên Đế còn sủng ái [[Phó chiêu nghi (Hán Nguyên Đế)|Phó tiệp dư]] và [[Phùng Viện|Phùng tiệp dư]], cả hai người này mỗi người đều sinh hạ được hoàng tử; là [[Lưu Khang]] và [[Lưu Hưng (Trung Sơn vương)|Lưu Hưng]]. Khi Thái tử Lưu Ngao càng trưởng thành, dần yêu thích yến tiệc ngoạn nhạc, Hán Nguyên Đế càng không hài lòng với tác phong của Thái tử và ấn tượng với hoàng tử Lưu Khang hơn<ref>《汉书》:皇后自有子后,希复进见。太子壮大,宽博恭慎,语在《成纪》。其后幸酒,乐燕乐,元帝不以为能。而傅昭仪有宠于上,生定陶共王。王多材艺,上甚爱之,坐则侧席,行则同辇,常有意欲废太子而立共王。时凤在位,与皇后、太子同心忧惧,刺侍中史丹拥右太子,语在《丹传》。上亦以皇后素谨慎,而太子先帝所常留意,故得不废。</ref>.
Năm Cảnh Ninh nguyên niên ([[33 TCN]]), Hán Nguyên Đế ngã bệnh. Phó Chiêu nghi cùng Lưu Khang hết lòng bên cạnh hầu thuốc thang, trong khi Hoàng hậu và Thái tử không thường xuyên ghé thăm ông. Nhân cơ hội đó, Phó chiêu nghi cố thuyết phục Nguyên Đế thay ngôi Thái tử, trao về cho Lưu Khang, Hán Nguyên Đế trong cơn bệnh cũng có ý như vậy. Khi ấy, anh của Vương
▲Năm Kiến Chiêu thứ 4 ([[35 TCN]]), em trai út của Nguyên Đế là Trung Sơn vương [[Lưu Cánh]] mất, thế nhưng Thái tử Lưu Ngao không thể hiện sự đau buồn nào. Trong khi đó, Lưu Cánh cùng Thái tử cùng tuổi và đã chơi cùng nhau từ thuở còn nhỏ, điều này khiến Nguyên Đế thất vọng với Thái tử, nói:''"Nào có người không có nhân hiếu mà có thể phụng sự tông miếu, là cha mẹ của trăm họ chứ?!"''. Cận thần [[Sử Đan]] (史丹) vốn là hầu cận Hán Nguyên Đế, lập tức bỏ mũ xuống, dập đầu nói:''"Thần đích xác thấy bệ hạ bi thương Trung Sơn vương, bởi vì thương cảm mà thương thân. Buổi sáng Thái tử chuẩn bị tiến kiến, thần tự mình dặn dò đừng khóc, để tránh bệ hạ thương cảm. Tội ở thần hạ, đáng chết"''. Hán Nguyên Đế nghe như vậy mới không tức giận nữa<ref>《汉书·卷八十二王·商史丹傅喜传第五十二》:其后,中山哀王薨,太子前吊。哀王者,帝之少弟,与太子游学相长大。上望见太子,感念哀王,悲不能自止。太子既至前,不哀。上大恨曰:“安有人不慈仁而可奉宗庙为民父母者乎!”上以责谓丹。丹免冠谢上曰:“臣诚见陛下哀痛中山王,至以感损。向者太子当进见,臣窃戒属毋涕泣,感伤陛下。罪乃在臣,当死。”上以为然,意乃解。丹之辅相,皆此类也。</ref>.
▲Năm Cảnh Ninh nguyên niên ([[33 TCN]]), Hán Nguyên Đế ngã bệnh. Phó Chiêu nghi cùng Lưu Khang hết lòng bên cạnh hầu thuốc thang, trong khi Hoàng hậu và Thái tử không thường xuyên ghé thăm ông. Nhân cơ hội đó, Phó chiêu nghi cố thuyết phục Nguyên Đế thay ngôi Thái tử, trao về cho Lưu Khang, Hán Nguyên Đế trong cơn bệnh cũng có ý như vậy. Khi ấy, anh của Vương hoàng hậu là Vương Phượng đang nhậm chức Thị trung biết được, cùng Hoàng hậu và Thái tử ưu sầu, không biết làm sao. Một lần nữa, đại thần [[Sử Đan]] lại cản trở, xông thẳng vào phòng ngủ, khóc mà nói:''"Hoàng thái tử là Đích trưởng tử, tính đến nay hơn 10 năm ở Đông Cung, danh vọng không ai không biết, thiên hạ đều tin tưởng ngài. Nay Định Đào vương được sủng hạnh, lời đồn truyền xa, Thái tử ngày đêm lo lắng, tâm tư dao động. Nếu quả thực như vậy, các Công khanh tất sẽ lấy cái chết để can gián. Thần cũng xin được bệ hạ ban chết để chúng quần thần noi theo!"''. Hán Nguyên Đế vốn nhân từ, thấy Sử Đan khóc lóc thì đành không nỡ, bèn nói:''"Ta từng ngày càng suy yếu, mà Thái tử cùng hai Vương đều còn nhỏ, tâm ta vẫn còn quyến luyến lắm nên đều giữ bên mình vậy thôi. Còn chuyện kia, khanh chớ lo. Hoàng hậu cẩn trọng, Thái tử được Tiên Đế yêu thích, ta nào dám trái ý?! Lời nói vô căn cứ kia là khanh nghe được ở đâu?"''.
== Thái Hoàng nhà Hán ==
=== Mở đường cho ngoại thích ===
Năm Cánh Ninh nguyên niên ([[33 TCN]]), [[tháng 5]], Hán Nguyên Đế băng hà. Thái tử Ngao lên nối ngôi, tức là [[Hán Thành Đế]]. Theo lệ của thời Tây Hán, những cung phi có con trai thụ phong làm Chư hầu Vương như [[Phó chiêu nghi (Hán Nguyên Đế)|Phó Chiêu nghi]] và [[Phùng Viện|Phùng Chiêu nghi]] đều trở thành [[Vương thái hậu]] và cùng con trai của mình rời khỏi [[Trường An]] để đến đất phong, còn những người không có con đều sẽ di dời đến chỗ khác hoặc lên lăng viên phụng sự Tiên Đế. Trong hậu cung chỉ còn lại một mình Vương Chính Quân với danh vị [[Hoàng thái hậu]] độc tôn, và [[Hiếu Tuyên Vương
Năm Hà Bình thứ 2 ([[27 TCN]]), Vương Thái hậu phong cho hàng loạt anh em trong nhà mình làm đại thần, nắm quyền điều hành triều đình nhà Hán: huynh trưởng [[Vương Phượng (Tây Hán)|Vương Phượng]] làm ''Tư mã đại tướng quân'' (司馬大將軍), tập tước ''Dương Bình hầu'' (阳平侯); em trai cùng mẹ là [[Vương Sùng]] (王崇) làm ''An Thành hầu'' (安成侯). Ngoài ra bà còn phong cho các em trai cùng cha khác mẹ là [[Vương Đàm]] (王譚) làm ''Bình A hầu'' (平阿侯); [[Vương Thương]] (王商) làm ''Thành Đô hầu'' (成都侯); [[Vương Lập]] (王立) làm ''Hồng Dương hầu'' (紅陽侯); [[Vương Căn]] (王根) làm ''Khúc Dương hầu'' (曲陽侯) và [[Vương Phùng Thì]] (王逢时) làm ''Cao Bình hầu'' (高平侯), được gọi là '''Ngũ hầu''' (五侯). Anh em họ Vương nắm hết quyền hành, Hán Thành Đế chỉ có ngôi vị trên danh nghĩa<ref>《汉书》:元帝崩,太子立,是为孝成帝。尊皇后为皇太后,以凤为大司马大将军领尚书事,益封五千户。王氏之兴自凤始。又封太后同母弟崇为安成侯,食邑万户。凤庶弟谭等皆赐爵关内侯,食邑。</ref><ref>《汉书》:后五年,诸吏散骑安成侯崇薨,谥曰共侯。有遗腹子奉世嗣侯,太后甚哀之。明年,河平二年,上悉封舅谭为平阿侯,商成都侯,立红阳侯,根曲阳侯,逢时高平侯。五人同日封,故世谓之“五侯”。太后同产唯曼蚤卒,余毕侯矣。太后母李亲,苟氏妻,生一男名参,寡居。顷侯禁在时,太后令禁还李亲。太后怜参,欲以田蚡为比而封之。上曰:“封田氏,非正也。”以参为侍中水衡都尉。王氏子弟皆卿、大夫、侍中、诸曹,分据势官满朝廷。</ref>.
Hàng 78 ⟶ 72:
Năm Hồng Gia thứ 3 ([[18 TCN]]), do chị gái Hứa hậu vô lễ với Vương Phượng, Vương Thái hậu tạo sức ép, Hán Thành Đế phế Hứa hậu<ref>《汉书·卷九十七下·外戚传第六十七下》:是时,大将军凤用事,威权尤盛。其后,比三年日蚀,言事者颇归咎于凤矣。而谷永等遂著之许氏,许氏自知为凤所不佑。久之,皇后宠亦益衰,而后宫多新爱。后姊平安刚侯夫人谒等为媚道祝诅后宫有身者王美人及凤等,事发觉,太后大怒,下吏考问,谒等诛死,许后坐废处昭台宫,亲属皆归故郡山阳,后弟子平恩侯旦就国。凡立十四年而废,在昭台岁余,还徙长定宫。</ref>. Sau khi Phế hậu rồi, Thành Đế lại muốn lập Triệu Phi Yến làm Hoàng hậu thay thế, nhưng do Vương Thái hậu chê xuất thân Triệu thị mà chưa ưng thuận, Thành Đế được cháu gại bằng dì của Vương Thái hậu là Định Lăng hầu [[Thuần Vu Trường]] hiến kế truy phong cha của Triệu thị tước Hầu, do đó Vương Thái hậu mới bằng lòng. Em gái của Triệu hậu cũng trở thành [[Chiêu nghi]]<ref>《汉书·卷九十七下·外戚传第六十七下》:上欲立赵婕妤。皇太后嫌其所出微甚,难之。太后姊子淳于长为侍中,数往来传语,得太后指,上立封赵婕妤父临为成阳侯。后月余,乃封婕妤为皇后。</ref>.
Do không thể sinh con, Triệu Hoàng hậu và Triệu Chiêu nghi lo sợ địa vị của chị em mình sẽ lung lay nếu có người khác hạ sinh Hoàng tử, do đó bà luôn tìm cách tàn sát những cung tần có thai với Thành Đế để bảo đảm địa vị. Hán Thành Đế có 2 đứa con trai được sinh ra, một của Tào thị và một của Hứa thị, nhưng cả hai đều bị Triệu Chiêu nghi ra tay giết chết. Nàng ta còn ép cả hai cung nhân trên tự sát, rồi dùng mọi thủ đoạn từ hạ độc đến ra tay thẳng thắn những cung nhân nào có dấu hiệu được Thành Đế sủng hạnh. Sự điên dại trong việc truy sát của Triệu thị khiến Hán Thành Đế hoàn toàn tuyệt tự. Dù biết rõ những việc làm độc ác này song vốn là một Hoàng đế nhu nhược, Hán Thành Đế chỉ biết nuốt nước mắt nhìn cốt nhục của mình bị sát hại. Sự kiện này được [[Hán thư]] gọi là
Năm Nguyên Diên thứ 4 ([[9 TCN]]), do không có con trai, Hán Thành Đế bèn triệu em trai là Trung Sơn vương [[Lưu Hưng (Trung Sơn vương)|Lưu Hưng]] và cháu trai là Định Đào vương [[Hán Ai Đế|Lưu Hân]], con của Định Đào Cung vương Lưu Khang, về [[Trường An]] để chọn người kế vị. Bà nội của Lưu Hân là Phó Thái hậu đã diện kiến Triệu
=== Thái hoàng thái hậu ===
Năm Tuy Hòa thứ 2 ([[7 TCN]]), [[tháng 3]], Hán Thành Đế khi đang triệu hạnh [[Triệu Hợp Đức|Triệu Chiêu nghi]] thì đột ngột băng hà. Thái tử Lưu Hân kế vị, tức [[Hán Ai Đế]]. Tân Hoàng đế tôn Hoàng thái hậu Vương Chính Quân là [[Thái hoàng thái hậu]], lại tôn Hoàng hậu Triệu Phi Yến làm [[Hoàng thái hậu]] do vai trò quan trọng trong việc Lưu Hân đăng ngôi Thái tử. Còn Triệu Chiêu nghi bị Vương Thái hậu hạch tội mưu sát, do Hán Thành Đế chết khi đang lâm hạnh, do đó Triệu Chiêu nghi sợ tội nhảy giếng tự vẫn.
Nhìn thấy cục diện toàn do họ Vương của Vương Thái hậu nắm giữ, Hán Ai Đế không bằng lòng nên bắt đầu khơi mào chiến tranh ngoại thích. Ông trọng dụng toàn bộ gia tộc [[họ Phó]] của Tổ mẫu Phó Thái hậu và [[họ Đinh]] của Sinh mẫu [[Đinh Cơ]]. Do sự cạnh tranh của ngoại thích mới, nên Vương Mãng và họ Vương bị đẩy ra ngoài triều đình. Cao Xương hầu [[Đổng Hoành]] (董宏) tấu lên, lấy lý lẽ ''"Mẫu dĩ Tử quý"'' (母以子贵), cẩn tôn Đinh Cơ làm Thái hậu. Dưới áp lực của Đại tư mã Vương Mãng, cùng Khổng Quang và Sư Đan, Đổng Hoành bị cắt chức lưu đày. Hán Ai Đế sau đó đến Trường Tín cung, xin Vương Thái hậu tôn thụy cho Định Đào Cung vương làm Cung Hoàng, sau đó hạ chỉ tôn Phó Thái hậu làm '''Cung Hoàng thái hậu''' (恭皇太后) và Đinh Cơ được tôn làm '''Cung
Cảm thấy dòng họ của mình đang bị chèn ép, Vương Chính Quân yêu cầu cháu trai Đại tư mã Vương Mãng từ chức, dùng kế ''"Khất hài cốt"'' (乞骸骨), nhưng Hán Ai Đế không duyệt chuẩn. Thừa tướng [[Khổng Quang]] (孔光), Đại tư không [[Hà Vũ]] (何武), Tả tướng quân [[Sư Đan]] (师丹) hiệp dâng tấu lên Thái hoàng thái hậu, nói:「''"Hoàng đế nghe nói Thái hậu giáng chức Vương Mãng, phi thường thương tâm. Đại tư mã nếu không còn giữ chức, Hoàng đế cũng không dám nghe báo cáo và quyết định sự việc"''」. Do đó Vương Chính Quân lại triệu Vương Mãng về triều<ref>《汉书》卷九九上,王莽传第六十九上:“成帝崩,哀帝即位,尊皇太后为太皇太后。太后诏莽就第,避帝外家。莽上疏乞骸骨,哀帝遣尚书令诏莽曰:‘先帝委政于君而弃群臣,朕得奉宗庙,诚嘉与君同心合意。今君移病求退,以著朕之不能奉顺先帝之意,朕甚悲伤焉。已诏尚书待君奏事。’又遣丞相孔光、大司空何武、左将军师丹、卫尉傅喜白太后曰:‘皇帝闻太后诏,甚悲。大司马即不起,皇帝即不敢听政。’太后复令莽视事。”</ref>. Sự việc ''"Khất hài cốt"'' của Vương Mãng, biểu thị cảm tính khách khí của Hán Ai Đế đối với ngoại thích họ Vương, nhưng trên thực tế là cảm giác nghi kị họ Vương chuyên quyền, nên ban đầu còn phải lấy lòng, thế nhưng ngày càng lạnh nhạt<ref>《汉书》:岁余,成帝崩,哀帝即位。太后诏莽就第,避帝外家。哀帝初优莽,不听。莽上书固乞骸骨而退。上乃下诏曰:“曲阳侯根前在位,建社稷策。侍中太仆安阳侯舜往时护太子家,导朕,忠诚专一,有旧恩。新都侯莽忧劳国家,执义坚固,庶几与为治,太皇太后诏休就第,朕甚闵焉。其益封根二千户,舜五百户,莽三百五十户。以莽为特进,朝朔望。”又还红阳侯立京师。哀帝少而闻知五氏骄盛,心不能善,以初立,故优之。</ref>. Từ đấy về sau, Hán Ai Đế cùng Vương thị đấu tranh ngày càng kịch liệt. Tư Lệ giáo úy [[Giải Quang]] (解光) buộc tội Vương Căn hành vi phạm tội, Hán Ai Đế liền đem Vương Căn trục xuất kinh sư, cũng đem quan lại được Vương thị tiến cử kể hết bãi miễn. Nhân một yến tiệc ở [[Vị Ương cung]], Nội giả lệnh vì Phó Thái hậu mà thiết màn trướng, ngồi trên Thái hoàng thái hậu Vương Chính Quân, bị Vương Mãng mắng:「''"Định Đào Thái hậu bất quá cũng chỉ là một phiên thiếp mà thôi! Có thể nào cùng ngồi với bậc chí tôn?!"''」. Nên màn trướng đó bị triệt đi<ref>《汉书》卷九九上,王莽传第六十九上:“未央宫置酒。内者令为傅太后张幄,坐于太皇太后座旁,莽案行,责内者令曰: ‘定陶太后藩妾,何以得与至尊并!’撤去,更设坐。”</ref>. Bị sỉ nhục, Hán Ai Đế càng đay nghiến ngoại thích họ Vương.
Năm Thái Sơ Nguyên Tương ([[5 TCN]]), Cung Hoàng thái hậu Phó thị được Hán Ai Đế tôn làm '''Đế thái thái hậu''' (帝太太后), sau đổi thành '''Hoàng thái thái hậu''' (皇太太后); Cung
=== Lấy lại thế cục ===
Đến năm Nguyên Xuân nguyên niên ([[2 TCN]]), niệm tình Vương Chính Quân đã già, mà tổ mẫu Phó Hoàng thái thái hậu đã mất, Hán Ai Đế cho Vương Mãng cùng Bình An hầu [[Vương Nhân]] trở về kinh sư, phụng dưỡng Vương Chính Quân. Năm Nguyên Xuân thứ 2 ([[1 TCN]]), Hán Ai Đế băng hà.
Nhân lúc Hán Ai Đế vừa băng, Thái hoàng thái hậu Vương Chính Quân đến ngay Vị Ương cung, bố trí tử đệ tiến hành đoạt lại triều đình. Trước khi lâm chung, Hán Ai Đế đã cho sủng nam [[Đổng Hiền]] (董賢) giữ lấy [[ngọc tỷ truyền quốc]], đến đây Thái hoàng thái hậu nghe Vương Hoành kiến nghị, đến ép Đổng Hiền giao ra ngọc tỷ<ref>《后汉书》卷一二,列传第二,《王闳传》:“哀帝临崩,以玺绶付贤曰:‘无妄以与人。’时国无嗣主,内外恇惧,闳白元后,请夺之;即带剑至宣德后闼,举手叱贤曰:‘宫车晏驾,国嗣未立,公受恩深重,当俯伏号泣,何事久持玺绶以待祸至邪!’贤知闳必死,不敢拒之,乃跪授玺绶。闳持上太后,朝廷壮之。”</ref>. Đổng Hiền là người phe họ Phó, hơn nữa là nam sủng của Hán Ai Đế, nên bị Vương Chính Quân triệu kiến, hỏi hắn quốc tang nên như thế nào điều hành, Đổng Hiền không thể nói, bèn cởi mũ tạ tội, Vương Chính Quân nói:「''"Tân Đô hầu Vương Mãng từng lấy thân phận Đại tư mã mà cử hành lễ tang của Tiên đế (tức Hiếu Thành hoàng đế), nếu ngươi chưa biết, ta sẽ triệu hắn vào cung hướng dẫn ngươi"''」. Ngày hôm đó, Thái hoàng thái hậu triệu Vương Mãng vào triều, trực tiếp đem [[Đại tư mã]] chức vị trả lại cho Mãng<ref>《资治通鉴》卷三十五:“太皇太后闻帝崩,即日驾之未央宫,收取玺绶。太后召大司马贤,引见东箱,问以丧事调度。贤内忧,不能对,免冠谢。太后曰:‘新都侯莽,前以大司马奉送先帝大行,晓习故事,吾令莽佐君。’贤顿首:‘幸甚!’太后遣使者驰召莽。”</ref><ref>Cát Kiếm Hùng, sách đã dẫn, tr 532</ref>.
Trở lại tôn vị vốn có, Vương Chính Quân ép Triệu Phi Yến cùng Hoàng hậu của Ai Đế là Phó thị tự sát<ref>《汉书》卷九七下,外戚传第六十七下:“……傅太后恩赵太后,赵太后亦归心,故成帝母及王氏皆怨之。哀帝崩……自杀。”</ref>, còn lăng mộ của Phó Thái hậu cùng Đinh Cơ cũng bị khai quật, giáng tước<ref>《汉书》卷八六,列传第五十六,《师丹传》:“平帝即位,新都侯王莽白太皇太后发掘傅太后、丁太后冢,夺其玺绶,更以民葬之。”</ref>. Theo lời kiến nghị của Vương Mãng, bà bãi chức hết những người thân thích của họ Phó và họ Đinh. Vương Thái hậu cùng Vương Mãng lập cháu nội của Hán Nguyên Đế, con của Trung Sơn Hiếu vương Lưu Hưng là Lưu Kì Tử mới 9 tuổi lên nối ngôi, lấy danh nghĩa 「''"
{{Cquote|
夫赦令者,將與天下更始,誠欲令百姓改行絜己,全其性命也。性者有司多舉奏赦前事,累增罪過,誅陷亡辜,殆非重信慎刑,洒心自新之意也。及選舉者,其歷職更事有名之士,則以為難保,廢而弗舉,甚謬於赦小過舉賢材之義。對諸有臧及內惡未發而薦舉者,皆勿案驗。令士厲精鄉進,不以小疵妨大材。自今以來,有司無得陳赦前事置奏上。有不如詔書為虧恩,以不道論。定著令,布告天下,使明知之。
Hàng 117 ⟶ 111:
Năm Thủy Kiến Quốc nguyên niên ([[9]]), Vương Mãng phế Nhũ Tử Anh làm Định An công và lên ngôi Hoàng đế, lập ra [[nhà Tân]].
Vào khi ấy Thái hoàng thái hậu Vương Chính Quân nắm giữ [[ngọc tỷ truyền quốc]], Vương Mãng sai An Dương hầu [[Vương Thuấn]] vào đòi. Lúc đó, Thái hoàng thái hậu cực kỳ tức giận, khóc mắng Vương Mãng là gian thần<ref>Lê Đông Phương, Vương Tử Kim, sách đã dẫn, tr 274</ref>, nói rằng:「''"Cha con các ngươi đều là ăn bổng lộc của Hán triều, thế rồi ngày nay mới có thể điện hiển đại quý. Các ngươi không có tâm báo ơn thì đã đành, bây giờ vào lúc Hán triều cần người gửi gắm nhất, thì lại đang tâm cướp đi quốc gia! Hoàn toàn không màng ân nghĩa chi đạo! Làm người như thế, thật là heo chó không bằng, Thiên tử như thế nào lại có thể loại huynh đệ như ngươi?! Hơn nữa nếu các ngươi tự cho là được đến thiên mệnh mà trở thành Tân hoàng đế, muốn thay đổi chính sóc phục chế, nên chính mình làm tân ngọc tỷ, truyền lưu muôn đời, thế còn màng đến cái ngọc tỷ mang điềm xấu mất nước này làm gì chứ?! Ta bất quá cũng chỉ là một lão góa phụ của Hán thất, có lúc sẽ mất đi, nên muốn đem ngọc tỷ này chôn cùng, các ngươi chung quy là không chiếm được!”''」.
Nói đoạn, Vương Chính Quân khóc lóc thảm thiết, kẻ hầu người hạ cũng đều khóc. Vương Thuấn tuy cảm thấy bi ai, nhưng qua hồi lâu vẫn là nói: == Cuối đời ==
Sau khi xưng Tân Đế, Vương Mãng đổi danh hiệu của bà là '''Tân thất Văn Mẫu Thái hoàng thái hậu''' (新室文母太皇太后). Sau [[Vương Mãng]] sợ danh hiệu Thái hoàng thái hậu của bà khiến thiên hạ tưởng nhớ [[nhà Hán]], nên đổi gọi '''Văn mẫu Hoàng thái hậu''' (文母皇太后), giản xưng '''Trường Thọ cung''' (長壽宮)<ref>《汉书》:莽又欲改太后汉家旧号,易其玺绶,恐不见听,而莽疏属王谏欲谄莽,上书言:“皇天废去汉而命立新室,太皇太后不宜称尊号,当随汉废,以奉天命”。莽乃车驾至东宫,亲以其书白太后。太后曰:“此言是也!”莽因曰:“此悖德之臣也,罪当诛!”于是冠军张永献符命铜璧,文言“太皇太后当为新室文母太皇太后。”莽乃下诏曰:“予视群公,咸曰‘休哉!其文字非刻非画,厥性自然’。予伏念皇天命予为子,更命太皇太后为‘新室文母太皇太后’,协于新、故交代之际,信于汉氏。哀帝之代,世传行诏筹,为西王母共具之祥,当为历代母,昭然著明。于祗畏天命,敢不钦承!谨以令月吉日,亲率群公诸侯卿士,奉上皇太后玺绂,以当顺天心,光于四海焉。”太后听许。莽于是鸩杀王谏,而封张永为贡符子。</ref>.
Vương Mãng thỉnh Vương Chính Quân đến Trường Thọ cung, thấy miếu của Hán Nguyên Đế đã đổ nát, bèn nói:「''“Đây là Hán thất Tông miếu, đều có thần linh tồn tại, là phạm vào tội gì làm ngươi hủy diệt! Nếu thiết quỷ thần vô tri, tu miếu có ích lợi gì? Nếu có biết, ta nguyên bản là phi thiếp của người ta, có thể nào bôi nhọ Tiên đế chi miếu?!”
Năm Thủy Kiến Quốc thứ 5 ([[13]]), ngày [[3 tháng 2]] (âm lịch), Thái hoàng thái hậu Vương Chính Quân qua đời, thọ 84 tuổi. [[Tháng 3]] cùng năm, bà được an táng cùng Hán Nguyên Đế tại [[Vị lăng]] (渭陵), tuy cùng [[mộ]] nhưng lại không cùng [[huyệt]]. Vương Mãng cũng lập Miếu thờ riêng thờ bà, dặn con cháu họ Vương đời đời về sau sẽ hiến tế bà, Vương mãng còn vì bà mà mặc tang phục 3 năm<ref>[https://zh.wikisource.org/wiki/%E6%BC%A2%E6%9B%B8/%E5%8D%B7099%E4%B8%AD 《汉书·卷九十九中·王莽傳·第六十九中》]: 五年二月,文母皇太后崩,葬渭陵,與元帝合而溝絕之。立廟於長安,新室世世獻祭。元帝配食,坐於床下。莽為太后服喪三年</ref>. Hán triều đã mất, không có lễ dâng thụy, cách gọi theo kiểu [[thụy hiệu]] là '''Hiếu Nguyên Hoàng hậu''' (孝元皇后) là vì bà là Hoàng hậu của Hán Nguyên Đế. Mười năm sau ([[23]]), Vương Mãng bị lật đổ, [[nhà Hán]] được khôi phục<ref>《汉书·元后傳》:太后年八十四,建国五年二月癸丑崩。三月乙酉,合葬渭陵。莽诏大夫扬雄作诔曰:“太阴之精,沙麓之灵,作合于汉,配元生成。”著其协于元城沙麓。太阴精者,谓梦月也。太后崩后十年,汉兵诛莽。</ref>.
Hàng 197 ⟶ 193:
...
Hiếu Nguyên
Rốt cuộc, để đàn bà đảm quốc, tạm thì thế nguy, lâu thì ắt vong. Nguyên hậu hưởng thọ tám mươi năm hơn có dư, trải qua bốn đời Hán, sống lâu như thế, nghi hồ chính là căn nguyên khiến Hán thất bại vong vậy!|||[[Thái Đông Phiên]] (蔡东藩), học sĩ đời [[nhà Thanh]]}}
|