Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kim Tae-yeon”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 57:
 
=== 2012–14: Girls' Generation-TTS và SM The Ballad ===
[[Tập tin:Taeyeon in December 2013.jpg|thumb|upright|left|Taeyeon biểu diễn trong concert Märchen Fantasy của Girls' Generation vào tháng 12 năm 2013]]
Taeyeon tham gia vào việc lồng tiếng cho bộ phim hoạt hình ''[[Despicable Me]] ''(2010) và phần tiếp theo ''[[Despicable Me 2]]'' (2013) cùng với thành viên cùng nhóm [[Seohyun]] lần lượt trong các vai Margo và Edith.<ref>[http://www.newsen.com/news_view.php?uid=201005171053311001 Girls' Generation's Taeyeon and Seohyun cast as voice actors for ''Despicable Me'' (in Korean)] Newsen.com (ngày 17 tháng 5 năm 2010). Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2010.</ref><ref>[http://www.bntnews.co.uk/app/news.php?nid=6252 Girls Generation Taeyeon and Seohyun to throw first pitch] BNTNews.co.uk (ngày 28 tháng 8 năm 2013). Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2015.</ref> Ngày 28 tháng 3 năm 2012, cô phát hành bài hát "Missing You Like Crazy", nhạc phim của bộ phim truyền hình ''[[The King 2 Hearts]].'' Bài hát đạt vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng nhạc số hàng tuần của [[Gaon Chart|Gaon]] và bảng xếp hạng K-Pop Hot 100 của ''[[Billboard (tạp chí)|Billboard]]'',<ref name=MULCgaon>[https://web.archive.org/web/20140802061426/http://www.gaonchart.co.kr/chart/digital.php?f_chart_kind_cd=T&f_week=14&f_year=2012&f_type=week South Korea's Gaon music digital chart's for March 25-31, 2012 (in Korean)] [[Gaon Music Chart|Gaon]] (March 2012). Archived on ngày 2 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2014.</ref><ref name=MULCbillboard>[https://web.archive.org/web/20140802152017/http://www.billboard.com/charts/2012-04-14/k-pop-hot-100 Billboard's Korea K-Pop Hot 100 for ngày 14 tháng 4 năm 2012] [[Billboard charts|Billboard]] (April 2012). Archived on ngày 2 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2014.</ref> đồng thời được chọn là bài hát nhạc phim nổi tiếng nhất tại lễ trao giải Seoul Drama Awards năm 2012.<ref name="2012seoulaward">[http://newsen.com/news_view.php?uid=201208301909482410 Taeyeon's "Missing You Like Crazy" won at the “2012 Seoul Drama Awards” (in Korean)] Newsen.com (ngày 30 tháng 8 năm 2012). Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2014.</ref> Ngoài ra, Taeyeon còn phát hành bài hát "Closer", nhạc phim của bộ phim truyền hình ''[[To the Beautiful You]]''.<ref>[http://osen.mt.co.kr/article/G1109461296 Taeyeon & Dana participate in the "To The Beautiful You" OST (in Korean)] Osen.co.kr (ngày 4 tháng 9 năm 2012). Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2014.</ref> Bài hát đạt vị trí thứ 7 trên cả hai bảng xếp hạng trên.<ref name=Closergaon>[https://web.archive.org/web/20140802061622/http://www.gaonchart.co.kr/chart/digital.php?f_chart_kind_cd=T&f_week=37&f_year=2012&f_type=week South Korea's Gaon music digital chart's for September 2-8, 2012 (in Korean)] [[Gaon Music Chart|Gaon]] (September 2012). Archived on ngày 2 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2014.</ref><ref name=Closerbillboard>[https://web.archive.org/web/20140802153238/http://www.billboard.com/charts/2012-09-22/k-pop-hot-100 Billboard's Korea K-Pop Hot 100 for ngày 22 tháng 9 năm 2012] [[Billboard charts|Billboard]] (September 2012). Archived on ngày 2 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2014.</ref>
 
Dòng 67:
 
Ngày 30 tháng 5 năm 2014, Taeyeon phát hành bài hát "Love, that One Word", nhạc phim của bộ phim truyền hình ''[[You're All Surrounded]]''. Bài hát cũng lọt vào top 10 trên các bảng xếp hạng âm nhạc trực tuyến.<ref name=LTOWgaon>[https://web.archive.org/web/20140802062154/http://www.gaonchart.co.kr/chart/digital.php?f_chart_kind_cd=T&f_week=24&f_year=2014&f_type=week South Korea's Gaon music digital chart's for June 1-7, 2014 (in Korean)] [[Gaon Music Chart|Gaon]] (June 2014). Archived on ngày 2 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2014.</ref><ref name=LTOWbillboard>[https://web.archive.org/web/20140723005114/http://www.billboard.co.kr/?c=chart&m=k100&basedate=20140604 Billboard's K-Pop Hot 100 for ngày 4 tháng 6 năm 2014] Originally from Billboard.co.kr (June 2014). Archived on ngày 23 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2014.</ref>
 
{{clear}}
=== 2015–162015–17: Ra mắt với tư cách ca sĩ solo và album phòng thu đầu tay ''My Voice''===
[[Tập tin:Kim Tae-yeon performing in December 2015.jpg| nhỏ thumb|upright|left| Kim Taeyeon trình diễn tại ''[[KBS]] Music Festival'' vào ngày [[30 tháng 12]] năm [[2015]].]]
 
Tháng 1 năm 2015, Taeyeon được trao giải thưởng Ca khúc chủ đề phim truyền hình Hallyu hay nhất tại lễ trao giải Seoul International Drama Awards lần thứ 10. Tháng 2 năm 2015, cô góp mặt trong bài hát "Shake that Brass" của [[Amber Liu|Amber]], nghệ sĩ cùng công ty và thành viên nhóm nhạc nữ [[F(x) (nhóm nhạc)|f(x)]].<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=f(x)′s Amber Announces ′Shake that Brass′ as Title Song Feat. SNSD′s Taeyeon|url=http://mwave.interest.me/enewsworld/en/article/86830/fxs-amber-announces-shake-that-brass-as-title-song-feat-snsds-taeyeon|nhà xuất bản=CJ E&M enewsWorld|ngày truy cập=ngày 3 tháng 10 năm 2015}}</ref> Tháng 9 năm 2015, cô song ca với [[Yim Jae-beom]] trong bài hát "Scars Deeper Than Love".<ref>{{Chú thích web|url=http://mwave.interest.me/enewsworld/en/article/97681/yim-jae-bum-and-snsd-taeyeons-scars-deeper-than-love-rising-quickly-on-music-charts|tiêu đề=Yim Jae Bum and SNSD Taeyeon′s ′Scars Deeper Than Love′ Rising Quickly on Music Charts|nhà xuất bản=CJ E&M enewsWorld|ngày tháng=ngày 10 tháng 9 năm 2015|ngày truy cập=ngày 3 tháng 10 năm 2015}}</ref>
Dòng 76:
 
Tháng 6 năm 2016, Taeyeon phát hành mini-album thứ hai ''[[Why (EP của Taeyeon)|Why]]'' với hai đĩa đơn "Starlight" và "Why".<ref>{{chú thích báo|url=http://mydaily.co.kr/new/read.php?newsid=201606231002951139|title="음원퀸 귀환" 태연, 25일 딘 피처링 '스타라이트' 선공개|website=My Daily|language=ko|author=Jeon Won|date=ngày 23 tháng 6 năm 2016|accessdate=ngày 23 tháng 6 năm 2016}}</ref> Tháng 7 năm 2016, cô bắt đầu tổ chức chuyến lưu diễn solo "Butterfly Kiss" và trở thành thành viên nhóm nhạc nữ Hàn Quốc đầu tiên thực hiện được điều này.<ref>{{Chú thích web|url=http://sports.donga.com/3/02/20160524/78284968/1|tiêu đề=태연, 첫 단독 콘서트 ‘TAEYEON, Butterfly Kiss’ 개최|website=Sports DongA|ngôn ngữ=ko|ngày tháng = ngày 24 tháng 5 năm 2016 |ngày truy cập = ngày 26 tháng 5 năm 2016}}</ref> Tháng 9 năm 2016, cô phát hành bài hát nhạc phim "All with You" của bộ phim truyền hình ''[[Scarlet Heart: Ryeo]]''.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.topstarnews.net/detail.php?number=212627|tiêu đề=태연, 12일 0시 ‘달의 연인-보보경심 려’OST ‘올 위드 유(All with you)’ 공개|website=Top Star News|tác giả 1=Ahn Eun-kyung|ngôn ngữ=ko|ngày tháng = ngày 12 tháng 9 năm 2016 |ngày truy cập = ngày 18 tháng 9 năm 2016}}</ref> Tháng 11 năm 2016, Taeyeon phát hành đĩa đơn nhạc số "11:11".<ref>{{chú thích báo|url=http://www.asiatoday.co.kr/view.php?key=20161101001554486|title=태연, 신곡 ‘11:11’ 공개…‘탱티쉐 오븐 앤 일레븐’ 생방송 진행까지author=Kim Young-jin|website|Asia Today|date=ngày 1 tháng 11 năm 2016|accessdate=ngày 1 tháng 11 năm 2016|language=ko}}</ref> Bài hát đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng nhạc số của Gaon.<ref>{{Chú thích web|url=http://gaonchart.co.kr/main/section/chart/online.gaon?nationGbn=T&serviceGbn=ALL&targetTime=45&hitYear=2016&termGbn=week|tiêu đề=Gaon Digital Chart - Week 45, 2016|website=[[Gaon Chart]]|ngày truy cập=ngày 6 tháng 12 năm 2016|ngôn ngữ=ko}}</ref> Sau đó cô giành chiến thắng lần thứ hai liên tiếp ở hạng mục Nữ nghệ sĩ xuất sắc nhất tại lễ trao giải [[Mnet Asian Music Awards]] lần thứ 18.
{{clear}}
 
===2017–nay: ''My Voice, Japan Showcase Tour 2018, Something New (EP)''===
 
[[Tập tin:Kim Tae-yeon at Asia Song Festival on September 24, 2017 (4).jpg | nhỏ | Taeyeon trình diễn tại [[Asia Song Festival]] [[2017]].]]
 
Tháng 2 năm 2017, Taeyeon phát hành album phòng thu đầu tiên ''[[My Voice]]'' với bài hát chủ đề "Fine".<ref name=billboard-myvoice>{{Chú thích web|url=http://www.billboard.com/articles/columns/k-town/7709090/k-pop-starlet-taeyeon-fine-new-single-first-lp|tiêu đề=Taeyeon Is 'Fine' With First Solo LP 'My Voice'|tên 1=Tamar|họ 1=Herman|work=Billboard|ngày tháng=March 1, 2017|ngày truy cập=March 1, 2017}}</ref> Cả album và bài hát đều đạt vị trí thứ nhất lần lượt trên [[Gaon Album Chart]] và [[Gaon Digital Chart]].<ref>{{Chú thích web|url=http://gaonchart.co.kr/main/section/chart/album.gaon?nationGbn=T&serviceGbn=&targetTime=09&hitYear=2017&termGbn=week|tiêu đề=Gaon Album Chart - Tuần 9, 2017|ngày truy cập=March 9, 2017|ngôn ngữ=ko|nhà xuất bản=[[Gaon Music Chart]]}}</ref><ref>{{Chú thích web|url lưu trữ=http://web.archive.org/web/20170309051712/http://gaonchart.co.kr/main/section/chart/online.gaon?nationGbn=T&serviceGbn=ALL|url=http://gaonchart.co.kr/main/section/chart/online.gaon?nationGbn=T&serviceGbn=ALL|tiêu đề=Gaon Digital Chart - Tuần 9, 2017|nhà xuất bản=[[Gaon Music Chart]]|ngôn ngữ=ko|ngày lưu trữ=March 9, 2017}}</ref> Tháng 4 năm 2017, phiên bản deluxe của ''My Voice'' được phát hành cùng với đĩa đơn "Make Me Love You".<ref>{{chú thích báo|url=http://kpopherald.koreaherald.com/view.php?ud=201703291516251541295_2|title=Taeyeon to release album on April 5|website=[[The Korea Herald]]|author=Yoon Min-sik|date=March 29, 2017|accessdate=April 19, 2017}}</ref> Bài hát đạt vị trí thứ tư trên bảng xếp hạng Gaon Digital Chart.<ref>{{Chú thích web|url=http://gaonchart.co.kr/main/section/chart/online.gaon?nationGbn=T&serviceGbn=ALL&targetTime=14&hitYear=2017&termGbn=week|tiêu đề=Gaon Digital Chart - Tuần 14, 2017|nhà xuất bản=[[Gaon Music Chart]]|ngày truy cập=April 13, 2017}}</ref> Tháng 5 năm 2017, Taeyeon tổ chức chuyến lưu diễn [[châu Á]] "Persona".<ref>{{chú thích báo|url=http://kpopherald.koreaherald.com/view.php?ud=201704071501119177994_2|title=Taeyeon to hold 2nd solo concerts in May|website=[[The Korea Herald]]|author=Yoon Min-sik|date=April 7, 2017|accessdate=April 19, 2017}}</ref> Chuyến lưu diễn khởi đầu tại [[Seoul]] và sau đó đi qua các thành phố [[Hồng Kông]], [[Đài Bắc]] và [[Băng Cốc]].<ref>{{Chú thích web|url=http://www.koreaherald.com/view.php?ud=20170407000523|tiêu đề=Taeyeon of Girls' Generation to hold solo concert in May|tác giả 1=Yoon Min-sik|ngày tháng=April 7, 2017|work=The Korea Herald|ngày truy cập=April 11, 2017}}</ref>
 
Hàng 86 ⟶ 82:
|work=[[The Korea Herald]]|date=December 7, 2017|accessdate=December 13, 2017}}</ref> Để quảng bá cho album, cô đã tổ chức 3 đêm concert với tên gọi "The Magic of Christmas Time" tại trường [[Đại học Kyung Hee]] vào ngày 22, 23 và 24 tháng 12.<ref>{{chú thích báo|url=http://kpopherald.koreaherald.com/view.php?ud=201711161138509748104_2|title=Taeyeon to return with Christmas record, concert in December|work=[[The Korea Herald]]|date=November 16, 2017|accessdate=December 13, 2017}}</ref> Album đạt vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng Gaon Album Chart,<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Gaon Album Chart – Week 50, 2017|url=http://gaonchart.co.kr/main/section/chart/album.gaon?nationGbn=T&serviceGbn=&targetTime=50&hitYear=2017&termGbn=week|website=[[Gaon Music Chart|Gaon Chart]] |ngôn ngữ=ko |ngày truy cập=December 21, 2017}}</ref> và thứ 6 trên bảng xếp hạng ''[[Billboard (tạp chí)|Billboard]]'' [[World Albums Chart]].<ref>{{Chú thích web|url=https://www.billboard.com/charts/world-albums/2017-12-30|tiêu đề=World Albums, December 30, 2017|work=Billboard|ngày truy cập=December 24, 2017}}</ref> Đĩa đơn "This Christmas" cũng đạt vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng Gaon Digital Chart.
 
===2018–nay: Ra mắt tại Nhật Bản và album phòng thu thứ hai ''Purpose''===
Ngày 15 tháng 6 năm 2018, Taeyeon khởi động tour "Taeyeon - Japan Show Case Tour 2018" tổ chức showcase tại 4 thành phố là [[Fukuoka]] (ngày 15 tháng 6), [[Nagoya]] (ngày 19 tháng 6), [[Tokyo]] (ngày 20 tháng 6) và cuối cùng là [[Osaka]] (ngày 29 tháng 6). Tại đây Taeyeon tiết lộ về single album [[tiếng Nhật]] đầu tay gồm 2 ca khúc "Stay" và "I'm The Greatest" với MV ca khúc chủ đề Stay được quay ở [[Châu Phi]] và được ra mắt vào ngày 30 tháng 6.
[[Tập tin:Kim Tae-yeon atin AsiaBest Songof FestivalBest Concert on SeptemberApril 2421, 20172018 (41).jpg | nhỏ thumb|upright| Taeyeon trình diễn tại [[AsiaBest Songof Best Concert vào tháng 4 Festival]]năm [[2017]]2018.]]
Tháng 6 năm 2018, Taeyeon phát hành EP thứ tư, ''[[Something New (EP)|Something New]]''.<ref>{{Cite news|url=http://kpopherald.koreaherald.com/view.php?ud=201806121145328136402_2&ACE_SEARCH=1 |title=Taeyeon to return with new EP on June 18 |access-date=18 tháng 9, 2018}}</ref> EP đạt vị trí thứ 3 trên bảng xếp hạng Gaon Album Chart,<ref>{{Cite web|url=http://gaonchart.co.kr/main/section/chart/album.gaon?nationGbn=T&serviceGbn=&targetTime=25&hitYear=2018&termGbn=week|title=국내 대표 음악 차트 가온차트! |website=gaonchart.co.kr |access-date=18 tháng 9, 2018}}</ref> và thứ 4 trên bảng xếp hạng ''Billboard'' World Albums Chart.<ref>{{Cite news|url=https://www.billboard.com/charts/world-albums/2018-06-30 |title=World Music: Top World Albums Chart |work=Billboard |access-date=18 tháng 9, 2018}}</ref> Cũng trong tháng 6, cô bắt đầu chuyến lưu diễn "Japan Showcase Tour" tại Nhật Bản dành riêng cho các thành viên chính thức của câu lạc bộ fan Nhật Bản của SM Entertainment tại.<ref>{{cite web|url=http://taeyeon.girls-generation.jp/news/showcase2018goods/ |archive-url=https://web.archive.org/web/20180717184040/http://taeyeon.girls-generation.jp/news/showcase2018goods/ |url-status=dead |archive-date=17 tháng 7, 2018 |title=TAEYEON -JAPAN SHOW CASE TOUR 2018-」グッズ販売決定!! - TAEYEON JAPAN OFFICIAL WEB – テヨン公式サイト |date=17 tháng 7, 2018}}</ref> Chuyến lưu diễn được tổ chức tại Fukuoka, Nagoya, Tokyo và Osaka. Sau thành công của chuyến lưu diễn, Taeyeon phát hành đĩa đơn tiếng Nhật đầu tay "[[Stay (bài hát của Taeyeon)|Stay]]" vào ngày 30 tháng 6. Tháng 8 năm 2018, Taeyeon góp mặt trong nhóm nhỏ thứ hai của Girls' Generation với tên gọi Oh!GG bao gồm các thành viên của Girls' Generation đã tái kí hợp đồng với SM Entertainment sau khi hợp đồng trước đó của nhóm với công ty hết hạn. Nhóm phát hành đĩa đơn đầu tay "Lil' Touch" vào tháng 9.<ref name="OhGG">{{cite news|url=https://www.billboard.com/articles/columns/k-town/8472209/girls-generation-ohgg-new-album-in-september |title=Girls' Generation Unit 'Oh!GG' to Release New Album in September |date=27 tháng 8, 2018 |accessdate=18 tháng 2, 2019 |work=[[Billboard (tạp chí)|Billboard]] |first=Tamar |last=Herman}}</ref> Từ tháng 10 năm 2018 đến tháng 3 năm 2019, Taeyeon tổ chức chuyến lưu diễn châu Á thứ hai,<ref>{{cite news|url=http://kpopherald.koreaherald.com/view.php?ud=201809171743170793398_2&ACE_SEARCH=1 |title=Taeyeon to hold solo concert in October |date=17 tháng 11, 2018 |accessdate=20 tháng 11, 2018 |publisher=K-POP Herald |last=Kim |first=Hye-soo}}</ref> trong đó có buổi diễn ở [[Asiaworld-Expo|AsiaWorld Expo Arena]] tại Hồng Kông, giúp cô trở thành nữ nghệ sĩ solo Hàn Quốc đầu tiên tổ chức concert tại đây.<ref>{{cite news|url=https://entertain.naver.com/read?oid=076&aid=0003347040 |language=ko |date=19 tháng 11, 2018 |accessdate=20 tháng 11, 2018 |title=태연, 해외 투어 포문 열다…홍콩 콘서트 성황 |publisher=sports.chosun.com |website=entertain.naver.com |author=anjee85}}</ref>
 
Tháng 3 năm 2019, Taeyeon phát hành đĩa đơn nhạc số "[[Four Seasons (bài hát)|Four Seasons]]" cùng với bài hát B-side "Blue".<ref>{{Cite web|url=http://www.melon.com/album/detail.htm?albumId=10265079|title=사계 (Four Seasons)|publisher=[[Melon (dịch vụ âm nhạc trực tuyến)|Melon]]|language=ko|access-date=25 tháng 3, 2019}}</ref> "Four Seasons" đạt vị trí thứ 6 trên bảng xếp hạng ''Billboard'' World Digital Songs<ref>{{cite web|url=https://www.billboard.com/biz/charts/2019-04-06/world-digital-song-sales|title=World Digital Song Sales |accessdate=14 tháng 4, 2019|work=[[Billboard (tạp chí)|Billboard]]|url-access=subscription}}</ref> và đứng đầu bảng xếp hạng Gaon Digital Chart của Hàn Quốc trong hai tuần liên tiếp.<ref>{{cite web|url=http://gaonchart.co.kr/main/section/chart/online.gaon?nationGbn=T&serviceGbn=ALL&targetTime=13&hitYear=2019&termGbn=week|title=Gaon Album Chart - Week 13, 2019 |accessdate=14 tháng 4, 2019 |language=ko |publisher=[[Gaon Music Chart]]}}
Ngày 18 tháng 6 năm 2018, Taeyeon phát hành mini album thứ 3 mang tên ''[[Something New (EP)|Something New]]'', album gồm 6 tracks với MV ca khúc chủ đề Something New được ra mắt cùng ngày. Album đứng đầu [[iTunes]] của gần 30 quốc gia và vùng lãnh thổ đồng thời tại quê nhà ca khúc cũng đứng đầu bảng xếp hạng thời gian thực của Mnet và lọt top 7 của MelOn, Bugs, Genie, olleh, Soribada, Naver. Album hạ cánh ở vị trí số 3 trên [[Gaon Album Chart]] và đứng thứ 4 tại [[Billboard World Album]].
*{{cite web|url=http://gaonchart.co.kr/main/section/chart/online.gaon?nationGbn=T&serviceGbn=ALL&targetTime=14&hitYear=2019&termGbn=week|title=Gaon Album Chart - Week 14, 2019 |accessdate=14 tháng 4, 2019 |language=ko |publisher=[[Gaon Music Chart]]}}</ref> Đến nay bài hát đã đạt trên 100 triệu lượt stream và được Hiệp hội Âm nhạc Hàn Quốc chứng nhận bạch kim.<ref>{{cite web|url=http://gaonchart.co.kr/main/section/certification/list.gaon?serviceGbn=S1040|title=Streaming Certifications|publisher=[[Gaon Music Chart]]|language=ko|accessdate=10 tháng 12, 2019}}</ref> Tháng 4 năm 2019, Taeyeon bắt đầu chuyến lưu diễn đầu tiên của mình tại Nhật Bản với tên gọi "~Signal~", với buổi diễn đầu tiên vào ngày 13 tháng 4 tại [[Fukuoka]].<ref>{{Cite news|url=http://www.koreaherald.com/view.php?ud=20190221000604&ACE_SEARCH=1|title=Taeyeon from Girls' Generation to tour 4 Japanese cities in April|access-date=23 tháng 2, 2019}}</ref> Sau đó cô phát hành EP tiếng Nhật đầu tay, ''[[Voice (EP của Taeyeon)|Voice]]'', vào ngày 13 tháng 5.<ref>{{Cite news|url=https://sonejapan.net/pub/news/newsdetail.php?nid=WGRsqHhRv54=|title=Taeyeon will release her first Japanese mini-album 'VOICE' on June 5th!|access-date=14 tháng 4, 2019}}</ref> Nửa sau năm 2019, Taeyeon góp mặt trong chương trình truyền hình thực tế ''[[Begin Again (chương trình truyền hình)|Begin Again]]'' của đài [[JTBC]] và [[Nghệ thuật biểu diễn trên đường phố|biểu diễn trên đường phố]] tại [[Berlin]] và [[Amsterdam]].<ref name="naver1">{{cite web |url=https://entertain.naver.com/now/read?oid=609&aid=0000112044 |title=JTBC 측 "이적-태연-폴킴 '비긴어게인3' 후발팀 합류"(공식입장) |language=Korean |trans-title=JTBC Announces Lee Juck, Taeyeon, Paul Kim Joining Second Team in Begin Again Season 3 |last= |first= |date=22 tháng 5, 2019 |website=[[Naver]] |access-date=8 tháng 6, 2019}}</ref><ref>{{cite web |url=https://entertain.naver.com/now/read?oid=468&aid=0000495624 |title=박정현X하림X헨리X수현, '비긴어게인3'로 다시 뭉친다…7월 첫방 |language=Korean |trans-title=Park Junh-hyun x Harim x Henry x Suhyun to Reunite for Begin Again 3 |last= |first= |date=April 16, 2019 |website=[[Naver]] |access-date=June 8, 2019}}</ref> Cô cũng thu âm bài hát nhạc phim "All About You" cho bộ phim truyền hình ''[[Hotel Del Luna]]'' của đài [[TvN (kênh truyền hình Hàn Quốc)|TvN]]; bài hát đứng đầu bảng xếp hạng Gaon Digital Chart trong hai tuần liên tiếp.<ref>{{cite web|url=http://gaonchart.co.kr/main/section/chart/online.gaon?nationGbn=T&serviceGbn=ALL&targetTime=30&hitYear=2019&termGbn=week|title=Gaon Digital Chart - Week 30, 2019 |accessdate=28 tháng 7, 2019 |language=ko |publisher=[[Gaon Music Chart]]}}
*{{cite web|url=http://gaonchart.co.kr/main/section/chart/online.gaon?nationGbn=T&serviceGbn=ALL&targetTime=31&hitYear=2019&termGbn=week|title=Gaon Digital Chart - Week 31, 2019 |accessdate=11 tháng 8, 2019|language=ko|publisher=Gaon Music Chart}}</ref>
 
Ngày 28 tháng 10 năm 2019, Taeyeon phát hành album phòng thu thứ hai ''[[Purpose (album của Taeyeon)|Purpose]]''.<ref>{{cite web|url=https://gulfnews.com/entertainment/music/k-pop-corner-girls-generations-taeyeon-to-drop-second-album-1.67092774|title=K-Pop Corner: Girls Generation's Taeyeon to drop second album|work=[[Gulf News]]|last=Khouri|first=Samar|date=13 tháng 10 2019|accessdate=17 tháng 10, 2019}}</ref> Album đạt thứ hạng cao nhất ở vị trí thứ 2 tại Hàn Quốc.<ref>{{cite web|url=http://gaonchart.co.kr/main/section/chart/album.gaon?nationGbn=T&serviceGbn=&targetTime=44&hitYear=2019&termGbn=week |title=Album Chart – Week 44 of 2019|language=ko |publisher=[[Gaon Music Chart]]}}</ref> Bài hát chủ đề của album "[[Spark (bài hát của Taeyeon)|Spark]]" cũng đạt vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng Gaon Digital Chart.<ref>{{cite web|url=http://gaonchart.co.kr/main/section/chart/online.gaon?nationGbn=T&serviceGbn=ALL&targetTime=44&hitYear=2019&termGbn=week|title=Digital Chart – Week 44 of 2019|date=2 tháng 11, 2019|accessdate=7 tháng 11, 2019|publisher=[[Gaon Music Chart]]}}</ref> Album được tái phát hành vào ngày 15 tháng 1 năm 2020, với ba bài hát mới trong đó có đĩa đơn "[[Dear Me (bài hát của Taeyeon)|Dear Me]]".<ref>{{Cite web|url=https://n.news.naver.com/entertain/article/382/0000789438|title=태연 정규 2집 리패키지 앨범 발매…신곡 3곡 추가|website=n.news.naver.com|language=ko|access-date=January 8, 2020}}</ref>
Vào tháng 8 năm 2018, sub unit thứ 2 của [[Girls' Generation]] được ra mắt với tên gọi [[Girls' Generation-Oh!GG|Oh!GG]] với sự tham gia Taeyeon và 4 thành viên còn lại vẫn ký tiếp hợp đồng với [[SM Entertainment]]. Nhóm cho ra mắt single album đầu tay ''Lil' Touch'' vào ngày 5 tháng 9 năm 2018. Taeyeon bắt đầu chuyến lưu diễn châu Á lần thứ hai từ tháng 10 năm 2018 đến tháng 1 năm 2019 mang tên ''<nowiki/>''' s... Taeyeon Concert. Vào ngày 12 tháng 10, SM thông báo rằng chuyến lưu diễn sẽ đến AsiaWorld Expo Arena, giúp cô trở thành nữ nghệ sĩ solo đầu tiên của [[Hàn Quốc]] tổ chức một buổi hòa nhạc solo tại đây. ''Encore concert'' kết thúc tour diễn của cô đã được diễn ra vào đầu năm 2019 tại Seoul's Jamsil Arena, Hàn Quốc vào ngày 23-24 tháng 3.
 
Tháng 1 năm 2020, Taeyeon bắt đầu chuyến lưu diễn "The Unseen"<ref>{{cite web|url=https://news.joins.com/article/23658849|script-title=ko:태연, 네 번째 단독 콘서트 'THE UNSEEN' 1월 17~19일 개최|date=12 tháng 12, 2017|work=JoongAng Ilbo|accessdate=9 tháng 2, 2020|language=ko}}</ref> và được công bố là sẽ tổ chức chuyến lưu diễn "Japan Tour 2020" tại 8 thành phố Nhật Bản.<ref>{{cite web|url=http://taeyeon.girls-generation.jp/news/japantour2020/|script-title=ja:テヨン、全国ソロツアー「TAEYEON JAPAN TOUR 2020(仮)」開催決定!|publisher=taeyeon.girls-generation.jp|language=ja|accessdate=February 9, 2020|date=December 25, 2019}}</ref> Sau đó cô được công bố là sẽ phát hành bài hát nhạc số "[[Happy (bài hát của Taeyeon)|Happy]]" vào ngày sinh nhật của cô - 9 tháng 3. Nhưng việc này đã bị hoãn lại sau khi bố của cô qua đời vào đúng ngày này.<ref>{{citeweb|url= https://metro.co.uk/2020/03/09/taeyeon-postpones-single-release-father-dies-birthday-12368367/|title=Taeyeon postpones single release as father dies on her birthday|date=9 tháng 3, 2020|accessdate=12 tháng, 2019|website=metro.co.uk}}</ref>
Tháng 2 năm 2019, SM xác nhận cô đang trong giai đoạn thu âm ca khúc mới. Ngày 22 tháng 3, MV của ca khúc chủ đề "''Four Seasons''" được ra mắt, sau 24h video thu về 2,7 triệu lượt xem, đồng thời đứng đầu top thính hành [[YouTube]] của [[Hàn Quốc]] không lâu sau đó. Ngày 24 tháng 3, Taeyeon chính thức ra mắt digital single album "''Four Seasons''" trên các trang nhạc số, với ca khúc chủ đề cùng tên và ca khúc B-side "''Blue''". Ca khúc chủ đề đứng ở vị trí số 6 trên Billboard's World Digital Songs Chart. Đồng thời "''Four Seasons"'' cùng lúc đứng đầu BXH [[Gaon Digital Chart]] và K-Pop Hot 100 của ''[[Billboard]]'' trong 2 tuần liên tiếp. Ca khúc còn đạt chứng nhận vàng về lượt download trên trang QQ Music của Trung Quốc. Ca khúc B-side "Blue" đứng đầu BXH [[iTunes]] của hơn 10 quốc gia và vùng lãnh thổ. "''Four Seasons"'' giành chiến thắng tại [[Show! Music Core]] vào ngày 6 tháng 4 và tại [[Inkigayo]] vào ngày 7 tháng 4. Ngay sau đó, Taeyeon bắt đầu tour concert đầu tiên tại [[Nhật Bản]], '''~Signal~,''' bắt đầu vào ngày 13 tháng 4 tại [[Fukuoka]]. Cùng với đó, Taeyeon sẽ cho ra mắt mini album tiếng Nhật đầu tay "VOICE" vào ngày 5 tháng 6.
 
==Đời tư==