Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tôn giáo tại Việt Nam”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Số liệu sai, cần sửa lại Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động |
n Thay đổi số lương tín đồ hai tôn giáo là Phật giáo và Công giáo theo số liệu chính thức của Ban Tôn giáo Chính phủ |
||
Dòng 5:
Theo số liệu cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009 thì toàn quốc có 18.661.437 người xác nhận mình theo một tôn giáo nào đó.
Đến thời điểm Tổng điều tra năm 2019, có 16 tôn giáo được phép hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
Những nguồn không chính thức cho rằng người có tôn giáo ở Việt Nam phải cao hơn so với mức dự đoán, thường trôi từ 35 đến 45 triệu người, do lịch sử tôn giáo đa dạng và lâu dài ở nước này.
Dòng 30:
{{chính|Phật giáo tại Việt Nam}}
[[Tập tin:Quang Nghiem tu.JPG|nhỏ|230px|Gác chuông [[chùa Quảng Nghiêm]].]]
[[Phật giáo]] hiện nay có số tín đồ
Có hai nhánh Phật giáo ở Việt Nam là [[Đại thừa]] và [[Tiểu thừa]]. Phật giáo Đại thừa lần đầu tiên từ [[Trung Quốc]] vào tới vùng [[đồng bằng sông Hồng|đồng bằng châu thổ sông Hồng]] của Việt Nam từ khoảng năm [[200]] và trở thành tôn giáo phổ biến nhất trên toàn đất nước, trong khi Phật giáo Tiểu thừa từ [[Ấn Độ]] du nhập vào phía nam [[đồng bằng sông Cửu Long]] từ khoảng năm [[300]] - [[600]] và trở thành tôn giáo chính ở vùng đồng bằng phía nam Việt Nam.
Dòng 45:
[[Giáo hội Công giáo Rôma|Công giáo Rôma]] lần đầu tiên tới Việt Nam vào thế kỉ 16 tại [[Nam Định]] (thời [[Nhà Lê trung hưng]]). Sau những nỗ lực của một số [[nhà truyền giáo]] [[Bồ Đào Nha]], [[Ba Lan]] và [[Tây Ban Nha]], các cộng đoàn tín hữu lâu bền chính thức được thành lập khi các tu sĩ [[Dòng Tên]] thuộc nhiều quốc tịch tới truyền giáo tại [[Đàng Trong]] năm [[1615]] và tại [[Đàng Ngoài]] năm [[1627]]. Hai [[Hạt Đại diện Tông tòa]] đầu tiên được thành lập vào năm [[1659]]. Công giáo Việt Nam phát triển trong suốt thời gian sơ khởi này và trở thành một trong những cộng đồng Kitô giáo thiểu số quan trọng nhất tại châu Á, nhưng mạnh hơn hẳn ở Đàng Trong do sự khoan dung tôn giáo của chúa Nguyễn.<ref>{{chú thích sách|last1=Keith|first1=Charles|title=Catholic Vietnam: A Church from Empire to Nation|date=2012|publisher=University of California Press|page=18|isbn=9780520272477|url=https://www.ucpress.edu/book.php?isbn=9780520272477}}</ref> Các cuộc bách hại diễn ra mạnh nhất dưới thời [[Minh Mạng]] và bởi [[phong trào Văn Thân]]. Vào giai đoạn chấm dứt [[Chiến tranh Pháp-Thanh]], có khoảng 700 ngàn người Công giáo Việt Nam, chiếm khoảng 6–7% dân số, đa số sống ở vùng đồng bằng sông Hồng, nhiều nhất là các tỉnh Nam Định, Ninh Bình, Hải Dương, Hà Nội; kế tiếp là các khu vực Vinh, Huế, Sài Gòn và Quy Nhơn. Thời [[Pháp thuộc]], chính quyền bảo đảm quyền [[tự do tôn giáo]] lần đầu tiên trên đất nước Việt Nam. Nhờ vậy Công giáo cũng như một số tôn giáo khác đã thoát khỏi thời kỳ bách hại dưới các triều đại phong kiến.
Theo thống kê năm 2019 ở Việt Nam: Công Giáo đứng
Số [[danh sách giám mục người Việt|giám mục người Việt]] được [[Tòa Thánh]] tấn phong trong 80 năm thời Pháp thuộc là 4 người, trong 30 năm chiến tranh (1945-1975) là 33 người ở cả hai miền, từ năm 1976 đến 2004 là 42 người. [[Giáo hoàng Gioan Phaolô II]] đã phong thánh cho các tín đồ tử vì đạo ở Việt Nam từ năm 1533 là các tử sĩ Việt Nam vào những năm 1980. Mặc dù Vatican và Việt Nam chỉ có quan hệ không chính thức, song từ năm 1990, Vatican đã có thỏa thuận với [[chính phủ Việt Nam]] về việc không chỉ trích hay nói xấu lẫn nhau, không hỗ trợ bên thứ ba để chống lại nhau; khi tấn phong giám mục hoặc các chức phẩm cao hơn, Vatican sẽ tham khảo ý kiến của chính phủ Việt Nam nhưng Vatican mới là người giữ quyền lựa chọn Đức Hồng y tại Việt Nam.<ref name="Glimpses119">Mai Lý Quảng, tr. 119</ref> Việt Nam là quốc gia Cộng sản châu Á đầu tiên thiết lập quan hệ không chính thức với Vatican và đã liên tục làm việc với Vatican kể từ năm 1990 tới nay, một điểm nhấn đối lập với các chế độ Cộng sản khác ở châu Á.
|