Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lưu Thông”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 39:
 
== Sự nghiệp ban đầu ==
Lưu Thông là con trai thứ tư của Lưu Uyên, mẹ là [[TrươngQuang phuHiến nhânhoàng hậu (LưuHán UyênTriệu)|Trương phu nhân]]. Khi còn nhỏ tuổi, ông kiêu dũng, thông minh sáng dạ và hiếu học. Năm 14 tuổi, ông đã thông kinh sử, học thuyết của bách gia, quen thuộc với "Tôn Ngô binh pháp". Ông cũng giỏi văn chương, thạo thư pháp, có tài về [[thảo thư]] và [[lệ thư]]. Năm 15 tuổi, ông tập võ nghệ, giỏi bắn tên, thể lực dũng mãnh, không ai sánh kịp. Năm 20 tuổi, ông đến kinh sư [[Lạc Dương]] của Tấn, qua lại với nhiều danh sĩ, hai triều thần Tấn là [[Lạc Quảng]] (樂廣) và [[Trương Hoa]] (張華) khi đó đã nhận thấy ông có tài năng xuất chúng. Sau đó, ông làm "chủ bộ" cho Tân Hưng thái thú, do thể hiện được bản lĩnh nên được làm Kiêu kị biệt bộ tư mã, rồi Hữu bộ đô úy, ông giỏi an phủ thu nhận nên được hào hữu Hung Nô ngũ bộ quy thuận. Cuối cùng, Hà Gian vương [[Tư Mã Ngung]] (司馬顒) tiến cử ông làm Xích sa trung lang tướng để làm thuộc hạ, song ông lo ngại vì cha ông khi đó đang là thuộc hạ của Thành Đô vương [[Tư Mã Dĩnh]] (司馬穎). Ông vì thế đã chạy đến chỗ Tư Mã Dĩnh và phục vụ cho thế lực này, được trao chức Hữu tích nỗ tướng quân.<ref name=tt>[[Tấn thư]] [[:zh:s:晉書/卷102|quyển 102]]</ref>
 
Năm Vĩnh An thứ 1 (304), trong [[loạn bát vương]], Tư Mã Dĩnh nhậm mệnh Lưu Uyên làm Bắc thiền vu, Lưu Thông được lập làm Hữu Hiền vương, cùng cha nhậm mệnh trở về Hung Nô ngũ bộ để tập hợp viện quân cho Tư Mã Dĩnh. Sau khi về Hung Nô ngũ bộ, Lưu Uyên tức vị Đại thiền vu, đổi Lưu Thông làm Lộc Lễ vương.<ref name=tt/>