11.765
lần sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
==Giới thiệu văn bản==
Hiện nay (1982), theo PGS. Chương Thâu, vẫn chưa tìm được bản in đầu tiên, mà chỉ tồn tại hai bản chép tay được sao lại từ bản gốc trên.
*Bản thứ hai, hiện nằm trong tủ sách của một gia đình ở [[Huế]], dày 166 trang, so với bản trên, không có gì khác biệt nhiều.
Trong những năm cuối đời (1926-1940), khi bị giam lỏng ở Bến Ngự (Huế); Phan Bội Châu đã đem tác phẩm này dịch ra tiếng Việt theo thể văn vần [[thơ song thất lục bát|song thất lục bát]], và đặt tên là ''[[Việt Nam quốc sử bình diễn ca]]''. Năm 1929, ông có cho trích đăng trên ''báo Tiếng dân'' của [[Huỳnh Thúc Kháng]] được một kỳ; nhưng sau đó, bị [[đế quốc thực dân Pháp|thực dân Pháp]] không cho đăng tiếp, nên toàn bộ tác phẩm này chưa được công bố.<ref>Sau nhiều năm lưu lạc, ''Việt Nam Quốc sử bình diễn ca'' đã được tìm thấy. </ref>
Năm 1962, ''Việt Nam quốc sử khảo'', bản dịch của Chương Thâu, được nhà xuất bản Giáo dục (Hà Nội) ấn hành.
:''-[[Mạc Đăng Dung]] cắt hai châu và bốn động (nay là hai châu Thanh và châu Khâm).
:''-[[Lê Hiển Tông|Lê Cảnh Hưng]] năm 41, cắt đất sáu châu ở An Tây, Hưng Hóa (Quảng Lăng, Khiêm Châu, Hoàng Nham, Tuy Phủ, Hợp Phì, Lệ Tuyền) nhập vào đất [[Vân Nam]] ([[nhà Thanh]]).
:''-Bản triều [[Tự Đức]] năm 15 (1862), sai [[Phan Thanh Giản]] phụng sứ tới [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]] cắt sáu tỉnh
:''-Năm Tự Đức 36 (1883), ký hòa ước hòa thân Pháp - Việt (tức Hiệp ước Hácmăng) mất hết [[Bắc Kỳ]], chủ quyền cũng hết.
|
lần sửa đổi