Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Di-lan-đà vấn đạo”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 2:
'''Di Lan Đà vấn đạo''' hay '''Mi Lan Đà vấn đạo''' ([[tiếng Pali]]: ''Milindapañhā'', nghĩa là "Những câu hỏi của [vua] [[Menandros I|Di Lan Đà]]"), hoặc có các tên gọi khác như '''Kinh Mi Tiên vấn đáp''', '''Na Tiên tì-kheo kinh''' và '''Di Lan Vương vấn kinh''' (彌蘭王問經) trong các tài liệu Trung Quốc, là một [[kinh điển Phật giáo]] bằng [[tiếng Pali]], có niên đại từ khoảng năm [[100 TCN]] đến năm [[200]], ghi lại cuộc đối thoại giữa [[tì-kheo]] [[Na Tiên]] (tiếng Pali: ''Nāgasena'') và quốc vương [[Ấn-Hy Lạp]] [[Menandros I]] (tiếng Pali: ''Milinda'') của [[Bactria]], người trị vì vào thế kỷ thứ 2 TCN.
 
"Na Tiên tì-kheo kinh" được [[Phật giáo Myanmar|Phật giáo Miến Điện]] tôn sùng và được người Miến đưa vào ''[[Tiểu bộ kinh]]'', một trong năm bộ của [[Kinh tạng]] văn hệ Pali. Một phiên bản rút gọn được bao gồm như là một phần của bản dịch kinh văn [[Phật giáo Đại thừa]] của Trung Quốc. Tuy nhiên, "Na Tiên tì-kheo kinh" không được Phật giáo Thái Lan hay SriTích LankaLan coi là kinh điển, dù văn bản [[Nam tông]] còn sót lại được viết bằng [[Tiếng Sinhala|chữ Sinhala]], quốc ngữ của SriTích LankaLan.
 
Bản dịch sang chữ Hán có có tiêu đề "Di Lan Vương vấn kinh" tương ứng với ba chương đầu tiên của bản gốc tiếng Pali. Nó được dịch vào khoảng thời gian nào đó dưới thời [[Đông Tấn]] (317–420).
Dòng 9:
"Di Lan Đà vấn đạo" thuật lại cuộc đối thoại giữa đức vua [[Menandros I]] và vị tì-kheo [[Na Tiên]]. Phần lớn các học giả đồng thuận rằng công trình này là một sản phẩm được thêm thắt theo thời gian. Ủng hộ cho lập luận này cần lưu ý rằng các phiên bản dịch sang chữ Hán của tác phẩm ngắn hơn đáng kể.{{#tag:ref|Theo Hinüber (2000), tr. 83, đoạn 173, bản dịch tiếng Trung đầu tiên được cho là có từ thế kỷ thứ 3 và hiện đã bị mất; bản dịch tiếng Trung thứ hai, được gọi là "Na Tiên tì-kheo kinh" (''Nagasena-bhiksu-sutra''), ([http://www.cbeta.org/result/T32/T32n1670b.htm 那先比丘經] {{webarchive|url=https://web.archive.org/web/20081208080711/http://www.cbeta.org/result/T32/T32n1670b.htm |date=2008-12-08 }}) có niên đại từ thế kỷ thứ 4. Bản dịch thứ hai này "ngắn hơn nhiều" so với bản dịch tiếng Pali hiện tại Mil.|group=ghi chú}}
 
Phần sớm nhất của bộ kinh có lẽ đã được viết vào khoảng thời gian nào đó giữa năm 100 TCN và 200.{{sfn|von Hinüber|2000| pp= 85-86, đoạn 179}} Văn bản trong kinh có lẽ đã được viết bằng [[Sanskrit|chữ Sanskrit]]. Nhà Ấn học người Đức von Hinüber đề xuất rằng, dựa trên bản dịch chữ Hán cũng như một số khái niệm độc đáo trong văn kiện thì bản gốc của tác phẩm có lẽ đã được viết bằng tiếng Gandhari.{{sfn|von Hinüber|2000| p= 83, đoạn 173}} Tuy nhiên, ngoại trừ phiên bản tiếng Pali cùng các dẫn xuất của nó ở SriTích LankaLan ra thì không có phiên bản nào khác được biết đến.
 
Bản viết tay cổ nhất của bộ kinh bằng tiếng Pali đã được sao chép vào năm 1495. Dựa trên các bằng chứng trong chính cuốn sách, nhiều phần quan trọng của nó đã bị mất, khiến "Di Lan Đà vấn đạo" trở thành văn bản tiếng Pali duy nhất được biết là đã được lưu truyền lại dưới dạng không đầy đủ.{{sfn|von Hinüber|2000|pp=85, đoạn 178}}