Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Triệu Phong”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao |
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao |
||
Dòng 68:
== Lịch sử ==
Mảnh đất Triệu Phong chính thức thuộc về bản đồ nước Đại Việt từ năm [[1306]], lúc hai châu Ô – Rí được vua Champa là Chế Mân làm sính lễ cưới [[Công chúa Huyền Trân]] - con gái vua [[Trần Nhân Tông]]. Từ năm đó về trước, sử cổ chỉ cho biết mảnh đất này là một phần của Bộ Việt Thường – một trong 15 Bộ của nước [[Văn Lang]] đời các [[Vua Hùng]]. Sau năm 207 (trước Công nguyên) là một phần của huyện Tỳ Cành, quận Nhật Nam thời Bắc thuộc. Giữa [[thế kỷ IV]] lúc Vua
Sau khi tiếp quản,
Từ đây, việc di dân, lập làng chỉ còn diễn ra trong phạm vi nội bộ tỉnh và huyện (
Song song với quá trình di dân, lập làng đã diễn ra quá trình hình thành đơn vị hành chính. Năm [[1307]], Nhà Trần đổi tên Châu Ô thành Châu Thuận, đặt lỵ sở tại vùng Vệ Nghĩa (xã Triệu Long bây giờ). Về hành chính,
Năm [[1469]], vua [[Lê Thánh Tôn]] định lại bản đồ đất nước, đổi tên Hoa Lãng thành Võ Xương thuộc phủ Triệu Phong (Phủ Triệu Phong lúc này gồm 6 huyện từ Cửa Việt vào Điện Bàn ([[Quảng Nam – Đà Nẵng]]). Năm [[1801]], đặt dinh Quảng Trị, phủ Triệu Phong thuộc dinh, lãnh 3 huyện Đăng Xương, Hải Lăng, Minh Linh. Năm 1830 đặt chức tri phủ kiêm luôn huyện Minh Lương, 2 huyện Đăng Xương, Hải Lăng chỉ thống hạt. Năm 1836 phủ chuyển vào kiêm thay luôn Đăng Xương thống hạt 3 huyện (Minh Lương chia thành Minh Linh và Địa Linh). Đời Duy Tân, phủ chỉ là một huyện lớn không còn thống hạt). Năm 1604 Nguyễn Hoàng đổi thành huyện Đăng Xương, song phần đất của huyện Đăng Xương thời ấy khác với bây giờ. Tình trạng đó tồn tại mãi đến đời Minh Mạng, Tự Đức và Khải Định mới dần dần điều chỉnh lại thành mảnh đất như hiện nay (Quá trình điều chỉnh địa phận như sau: Năm 1836: cắt tổng An Lạc về huyện Địa Linh (Gio Linh). Cắt tổng An Nhơn và 3 thôn Phương Long, Phú Hải, Thuận Đầu (thuộc tổng An Lưu) về huyện Hải Lăng. Cắt tổng An Dã và 2 làng Tam Hữu, Anh Hoa (Anh Kiệt thuộc tổng An Thái và phần lớn tổng Hoa La trừ các làng Thạch Hãn, Tý Lễ (Quy Thiện, Long Hưng, Tích Tường, Như Lệ nhập về huyện Đăng Xương).
|