Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Phúc Ngọc Châu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 23:
Công chúa Ngọc Châu sinh năm [[Nhâm Dần]] ([[1782]]), là con gái trưởng của vua [[Gia Long]], mẹ là ''Chiêu dung'' Phạm Thị Lộc<ref name=":0">''Nguyễn Phúc tộc thế phả'', tr.261</ref>. Bà Ngọc Châu là chị cùng mẹ với ''Bảo Thuận Công chúa'' [[Nguyễn Phúc Ngọc Xuyến|Ngọc Xuyến]]<ref name=":0" />.
 
Năm [[Gia Long]] thứ 7 ([[1808]]), công chúa Ngọc Châu lấy chồng là ''Vệ úy'' Nguyễn Văn Ngoạn, là con trai của ''Đoan Hùng Quận công'' [[Nguyễn Văn Trương]]<ref name=":1">''Đại Nam liệt truyện'', tập 2, quyển 3: ''Truyện các công chúa'' – phần ''Bình Thái Công chúa Ngọc Châu''</ref>, được ban cho 30.000 [[quan tiền]] làm [[của hồi môn]]<ref>''Đại Nam thực lục'', tập 1, tr.742</ref>. Công chúa và phò mã có với nhau một con gái<ref name=":1" />.
 
Năm [[Minh Mạng]] thứ 14 ([[1833]]), phò mã Ngoạn mất<ref name=":1" />. Tháng 8 (âm lịch) năm thứ Minh Mạng thứ 16 ([[1835]]), vua thấy hai bà Trưởng công chúa (chị em của vua) là Ngọc Châu và [[Nguyễn Phúc Ngọc Xuyến|Ngọc Xuyến]] đều goá chồng, không con nên chuẩn cho nhận con riêng của chồng là Nguyễn Văn Doãn làm con kế tự Ngọc Châu, còn Trương Văn Giám làm con kế tự Ngọc Xuyến<ref name=":4">''Đại Nam thực lục'', tập 4, tr.748</ref>. Vua cho cả hai được ấm thụ chức ''Hiệu úy Cẩm y vệ'', ở nhà phụng dưỡng hai bà và miễn đi ứng trực (túc trực hầu vua)<ref name=":4" />.
 
Năm Minh Mạng thứ 21 ([[1840]]), vua sách phong cho bà Ngọc Châu làm '''Bình Thái Trưởng công chúa''' (平泰長公主), lấy tên [[Tổng (đơn vị hành chính cũ Việt Nam)|tổng]] của thái ấp đặt làm phong hiệu<ref>''Đại Nam thực lục'', tập 5, tr.664</ref>.
Dòng 31:
Năm [[Thiệu Trị]] thứ nhất ([[1841]]), vua miễn cho các Thái trưởng công chúa (cô của vua) là các bà Ngọc Châu, [[Nguyễn Phúc Ngọc Quỳnh|Ngọc Quỳnh]], [[Nguyễn Phúc Ngọc Anh|Ngọc Anh]] và [[Nguyễn Phúc Ngọc Xuyến|Ngọc Xuyến]] không phải quỳ lạy ở nội đình<ref name=":2">''Đại Nam thực lục'', tập 6, tr.130</ref>. Vua dụ rằng: “''Các Thái trưởng công chúa đều là người họ rất thân của nhà vua, tuổi ngày một nhiều, theo lẽ, phải nên hậu đãi. Nếu cứ câu nệ vào lễ thường, động việc gì cũng quỳ lạy, ta thấy không được yên lòng. Vả lại, thánh nhân đặt lễ, tất phải lấy nhân tình làm gốc, mà trong chốn gia đình, kính người trên làm trọng. Chuẩn cho từ nay về sau, gặp có việc tiết lễ khánh hạ, và bất thần ban cho thức gì, thì các Thái trưởng công chúa đều miễn cho không phải làm lễ 3 lần quỳ, 6 lần vái, để tỏ lòng ta rất kính người trên, hậu đãi thân thuộc''”<ref name=":2" />.
 
Năm Thiệu Trị thứ 3 ([[1843]]), vua đặc cách tăng lương hằng năm cho 4 bà công chúa trên, mỗi người được thêm 600 [[quan tiền]] và 300 [[Hệ đo lường cổ Việt Nam#Thể tích|phương gạo]]<ref>''Đại Nam thực lục'', tập 6, tr.955</ref>.
 
Năm [[Thiệu Trị]] thứ 7 ([[1847]]), tháng 2 (âm lịch), hai chị em bà Ngọc Châu và Ngọc Xuyến tâu rằng: “''Có đền thờ mẹ đẻ ở làng Phù Trạch, phủ Thừa Thiên, xin trích 10 tên dân phu sở tại miễn trừ cho binh đao, để sung vào việc coi giữ đền''”<ref name=":3">''Đại Nam thực lục'', tập 6, tr.981</ref>. Vua bảo [[bộ Lễ]] rằng: “''Việc xin đây cũng không phải lệ, nhưng vì hai công chúa đều không có con, nên tạm chuẩn y cho lời xin. Sau này không được viện để làm lệ''”<ref name=":3" />.
 
Mùa thu năm đó, công chúa Ngọc Châu mất, thọ 66 tuổi, [[Thụy hiệu|thụy]] là '''Đoan Tuệ''' (端慧)<ref name=":1" />. Vua sai chi vật liệu của công ra để lo liệu việc tang cho bà, lại cho thêm 3000 quan tiền, 50 cân [[sáp ong]] và 200 cân dầu<ref>''Đại Nam thực lục'', tập 6, tr.1048</ref>.
 
== Tham khảo ==
* Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc Tộc (1995), ''[http://www.namkyluctinh.com/a-sachsuvn/Nguyen_Phuc_Toc_The_Pha.pdf Nguyễn Phúc Tộc thế phả]'', Nhà xuất bản Thuận Hóa
* [[Quốc sử quán triều Nguyễn]] (2006), ''[[Đại Nam liệt truyện]] chínhChính biên'', Tổ Phiên dịch [[Viện Sử học]] dịch, Nhà xuất bản Thuận Hóa
* [[Quốc sử quán triều Nguyễn]] (2006), ''[[Đại Nam thực lục]] chínhChính biên'', Tổ Phiên dịch [[Viện Sử học]] dịch, Nhà xuất bản Giáo dục
 
== Chú thích ==