Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đế quốc Tân Babylon”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Tạo với bản dịch của trang “Neo-Babylonian Empire
Dòng 1:
 
{{Infobox Former Country
{{Hộp thông tin quốc gia
|native_name =
| conventional_long_name = Đế quốc Tân Babylon
| year_end = 539 TCN
|common_name = Babylon
| HDI_year =
|continent = moved from Category:Asia to the Middle East
| HDI =
|region = Trung Đông
| GDP_PPP_year =
|country =
| GDP_PPP =
|era = Thời kỳ đồ sắt
| area_rank =
|status_text =
|empire area_km2 =
| native_name = {{transl|akk|māt Bābil}}{{refn|''māt Bābil'' có nghĩa là "Xứ Babylon" trong [[tiếng Akkad]].{{sfn|Goetze|1964|p=98}}|group="n"}}<br>{{transl|akk|māt Akkadi}}{{refn|''māt Akkadi'' có nghĩa là "Xứ Akkad" trong tiếng Akkad.{{sfn|Da Riva|2013|p=72}}|group="n"}}<br>{{transl|akk|māt Šumeri u Akkadi}}{{refn|''māt Šumeri u Akkadi'' có nghĩa là "Xứ Sumer và Akkad" trong tiếng Akkad.{{sfn|Da Riva|2013|p=72}}|group="n"}}
|government_type = Quân chủ
| religion = [[Tôn giáo Lưỡng Hà cổ đại]]
|year_start = 626 TCN
| empire = Văn minh cổ Babylon
|year_end = 539 TCN
| government_type = [[Quân chủ]]
|year_exile_start =
| year_start = 626 TCN
|year_exile_end =
| common_name = Babylonia
|event_start = Nabopolassar
| image_flag = Shamash-sun-symbol (3 rays).svg
|date_start =
| p1 = Đế quốc Tân Assyria
|event_end = Trận Opis
| flag_p1 = Sun cross.svg
|p1 = Đế quốc Tân Assyria
| border_p1 = no
|flag_p1 = Map of Assyria.png
| s1 = NhàĐế quốc Achaemenes
| flag_s1 = Standard of Cyrus the Great (Achaemenid Empire).svg
| image_map = Empire neo babylonien.png
|s2 = Người Media
| image_map_caption = Đế quốc Tân Babylon dưới thời Nabonidus ({{reign}} 556–539 TCN)
|image_map = Neo-Babylonian Empire.png
| flag_type = Biểu tượng cách điệu của thần mặt trời [[Shamash]], là biểu tượng của vùng đất từ [[Đế quốc Akkad|thờiAkkad]] đến thời Tân-Babylon.{{sfn|Black|Green|1992|p=168}}
|image_map_caption = Đế quốc Tân Babylon
| capital = [[Babylon]]<br>Tayma <small>(''thực tế'' 553–543 TCN){{sfn|Sawyer|Clines|1983|p=41}}</small>
|image_flag =
| common_languages = [[Tiếng Akkad|Akkad]], [[Tiếng Aram|Aram]]
|flag_type =
| flag_border = no
|capital = [[Babylon]]
| today = {{flag|Iraq}}<br>{{flag|Syria}}<br>{{flag|Thổ Nhĩ Kỳ}}<br>{{flag|Ai Cập}}<br>{{flag|Saudi Arabia}}<br>{{flag|Jordan}}<br>{{flag|Iran}}<br>{{flag|Kuwait}}<br>{{flag|Lebanon}}<br>{{flag|Palestinian Authority}}<br>{{flag|Israel}}<br>{{flag|Cyprus}}
|common_languages = [[Tiếng Akkad|Akkad]], [[Tiếng Arama|Arama]]
|title_leader = Vua
|leader1 = [[Nabopolassar]]
|year_leader1 = 626–605 TCN
|leader2 = [[Nabonidus]]
|year_leader2 = 556–539 TCN
|today = {{flag|Iraq}}<br>{{flag|Syria}}<br>{{flag|Thổ Nhĩ Kỳ}}<br>{{flag|Ai Cập}}<br>{{flag|Saudi Arabia}}<br>{{flag|Jordan}}<br>{{flag|Iran}}<br>{{flag|Kuwait}}<br>{{flag|Lebanon}}<br>{{flag|Palestinian Authority}}<br>{{flag|Israel}}<br>{{flag|Cyprus}}
}}
'''Đế quốc Tân Babylon''' hay, còn được gọi là '''đếĐế quốcchế ChaldeaBabylon thứ hai'''{{Sfn|Zara|2008|p=4|pp=}} mộtthường giaiđược đoạncác lịchnhà sử Lưỡnghọc nhắc bắtđến đầu từ'''Đế nămchế 626Chaldea''',{{Sfn|Dougherty|2008|p=1|pp=}} trước Côngđế nguyênquốc [[Lưỡng kếtHà]] thúclớn vàocuối nămcùng 539được trướccai Côngtrị nguyên.bởi Dướicác sựvị lãnhvua đạobản củađịa Lưỡng Hà.{{Sfn|Hanish|2008|p=32}} Bắt đầu với việc Nabopolassar, Babylonlên thoátngôi khỏivới sự thốngcách trịlà Vua của AssyriaBabylon vào năm 626 TCN và nơitrở đâynên trởhùng thànhmạnh thủsau đôsự sụp đổ của đế[[Đế quốc Tân Assyria|Đế quốc Tân Assyrian]] vào năm 612 TCN, Đế chế quốc Tân Babylon mớichỉ tồn tại trong ít hơn một thế kỷ và cuối cùng bị [[Đế quốc Achaemenes|Đế chế Achaemenes]] [[Lịch sử Iran|Ba Tư]] chinh phục vào năm 539 TCN.
 
Việc Assyria thua trận và chuyển giao vị trí đế quốc cho [[Babylon]] đã đánh dấu lần đầu tiên thành phố Babylon nói riêng và vùng Nam Lưỡng Hà nói chung, trỗi dậy thống trị vùng [[Cận Đông cổ đại]], kể từ khi [[Đế chế Cổ Babylon|Đế chế cổ Babylon]] của [[Hammurabi]] sụp đổ gần một ngàn năm trước. Thời kỳ Tân Babylon chứng kiến sự tăng trưởng kinh tế và dân số chưa từng có trên khắp Babylonia cùng với sự phục hưng của văn hóa nghệ thuật, với những công trình xây dựng hoành tráng, đặc biệt là ở Babylon, làm sống lại nhiều nét đặc trưng cổ của văn hóa [[Văn minh cổ Babylon|Sumer-Akkad]] từ hai ngàn năm trước đó hoặc xa hơn nữa.
 
Đế chế vẫn giữ được một vị trí đặc biệt trong văn hóa hiện đại ngày nay chủ yếu là do hình ảnh tiêu cực của Babylon và vua[[Naboukhodonosor II|Nebuchadnezzar II]] được thể hiện trong [[Kinh Thánh]], quy trách nhiệm cho Nebuchadnezzar trong việc tàn phá Jerusalem năm 587 BC và cầm tù người Do Thái ở Babylon. Trong khi đó, các nguồn sử liệu Babylon mô tả triều đại của Nebuchadnezzar là thời kỳ hoàng kim đã đưa Babylonia trở thành đế chế vĩ đại nhất thời bấy giờ.
 
Các chính sách tôn giáo được áp đặt bởi vị vua cuối cùng của Đế chế, Nabonidus, người ủng hộ vị thần mặt trăng [[Sin (thần thoại)|Sîn]] thay cho vị thần bảo trợ của Babylon Marduk, đã tạo ra một ''[[Casus belli|cái cớ]]'' cho [[Cyrus Đại đế]] của Achaemenes xâm chiếm Babylonia vào năm 539 TCN, dưới ngọn cờ phục thù cho Marduk. Babylon vẫn giữ được văn hóa đặc trưng trong nhiều thế kỷ, thể hiện qua các cái tên Babylon và [[tôn giáo Babylon]] vẫn được nhắc tới cho đến cuối [[Đế quốc Parthia|thời kỳ Parthia]] vào thế kỷ 1 TCN. Mặc dù Babylon nổi dậy nhiều lần trong thời kỳ cai trị của các đế chế sau này, nhưng vẫn không thể nào khôi phục nền độc lập.
 
== Lý lịch ==
[[Tập tin:Babylone_1.PNG|trái|nhỏ| Bản đồ của [[Đế chế Cổ Babylon|Đế chế Babylon cổ đại]] dưới thời [[Hammurabi]] (r.   {{Circa|}} 1792 Nền1750 TCN). ]]
 
== Lịch sử ==
[[Tập tin:Etemenanki_Babylon_(7).png|trái|nhỏ| Được gọi là "Bia [[Tháp Babel]]", thể hiện [[Naboukhodonosor II|Nebuchadnezzar II]] ở phía trên bên phải và Đại [[ziggurat]] của [[Babylon]] ([[Etemenanki]]) ở bên trái. ]]
[[Tập tin:Cyrus_invasion_of_Babylonia.svg|nhỏ| Bản đồ hướng xâm lược Babylonia của [[Cyrus Đại đế]] năm 539 TCN. ]]
[[Tập tin:The_Babylonians_deriding_Darius.jpg|nhỏ| Minh họa cư dân [[Babylon]] chế giễu [[Darius I]] của [[Đế quốc Achaemenes|Achaemenes]] trong cuộc nổi dậy của Nebuchadnezzar III năm 522 TCN. Từ ''Lịch sử Darius Đại đế'' (1900) của Jacob Abbott. ]]
[[Tập tin:Basse_Mesopotamie_1mil.png|trái|nhỏ| Các thành phố lớn của Hạ Lưỡng Hà trong [[thế kỷ 1 TCN]]. ]]
 
=== Di sản ===
[[Tập tin:US_Navy_030529-N-5362A-001_A_U.S._Marine_Corps_Humvee_vehicle_drives_down_a_road_at_the_foot_of_Saddam_Hussein's_former_Summer_palace_with_ruins_of_ancient_Babylon_in_the_background.jpg|nhỏ| Quang cảnh một phần về tàn tích của [[Babylon]] ở [[Iraq]] thời hiện đại. ]]
Trước các cuộc khai quật khảo cổ học hiện đại ở Lưỡng Hà, lịch sử chính trị, xã hội và hình thái của Babylon cổ đại phần lớn là một điều bí ẩn. Các nghệ sĩ phương Tây thường hình dung thành phố và đế quốc của nó như là sự kết hợp của các nền văn hóa cổ đại đã biết - điển hình là sự pha trộn của văn hóa [[Hy Lạp cổ đại|Hy Lạp]] và [[Ai Cập cổ đại|Ai Cập]] [[Hy Lạp cổ đại|cổ đại]] - với một số ảnh hưởng từ đế quốc Trung Đông đương thời, [[Đế quốc Ottoman|Đế chế Ottoman]]. Những minh họa thời đầu về thành phố khắc họa nó với hàng cột dài, đôi khi có tầng cao, hoàn toàn không giống với kiến trúc thực tế của các thành phố Lưỡng Hà cổ đại trong lịch sử, cùng với các bút tháp và [[nhân sư]] lấy cảm hứng từ Ai Cập, và những chóp nhọn và tháp rải rác ảnh hưởng từ Ottoman.{{Sfn|Liverani|2016|pp=21–22|p=}}
 
Thời nay Babylon có lẽ được biết đến nhiều nhất qua những lần nó được nhắc đến trong Kinh Thánh theo cả nghĩa đen (liên quan đến các sự kiện lịch sử) và nghĩa bóng (tượng trưng cho những thứ khác). Đế chế Tân Babylon xuất hiện trong một số lời tiên tri và trong các mô tả về sự phá hủy Jerusalem và bị cầm tù người Do Thái tại Babylon sau đó. Do đó, theo truyền thống [[Người Do Thái|Do Thái]], Babylon tượng trưng cho bạo ngược và áp bức. Trong [[Kitô giáo]], Babylon tượng trưng cho sự trần tục và xấu xa. Những lời tiên tri đôi khi gắn các vị vua của Babylon với [[Lucifer]]. Nebuchadnezzar II, đôi khi được hợp nhất với Nabonidus, là người cai trị được nhắc đến nhiều nhất trong những câu chuyện này.{{Sfn|Seymour|2006|pp=91–101|p=}}
 
[[Sách Khải Huyền]] trong Kinh Thánh Kitô giáo đề cập đến Babylon nhiều thế kỷ sau khi nó không còn là một trung tâm chính trị lớn. Thành phố được nhân cách hóa thành "Con điếm thành Babylon", cưỡi trên một con thú đỏ tươi với bảy đầu và mười sừng, và say sưa hút máu của những người công chính. Một số học giả về văn học khải huyền tin rằng cụm "Babylon" trong Tân Ước này là để ẩn dụ cho [[Đế quốc La Mã|Đế chế La Mã]].{{Sfn|Tenney|1985|p=383}}
 
== Văn hóa xã hội ==
 
=== Tôn giáo ===
 
 
Babylon, giống như phần còn lại của Lưỡng Hà cổ đại, theo [[tôn giáo Lưỡng Hà cổ đại]], trong đó các vị thần có hệ thống cấp bậc và triều đại, các vị thần địa phương đóng vai trò là vị thần bảo trợ cho mỗi thành phố cụ thể. Marduk là vị thần bảo trợ của thành Babylon kể từ thời vua Hammurabi (thế kỷ 18 TCN) của Triều đại Babylon thứ nhất. Trong [[thần thoại Lưỡng Hà]], Marduk là một vị thần sáng tạo. Sử thi sáng thế của Babylon [[Enûma Eliš|Enuma Elish]] kể về việc thế giới được tạo thành như thế nào và quá trình Marduk trở thành vị thần tối cao. Mặc dù tín ngưỡng Marduk của người Babylon không phủ nhận sự tồn tại của các vị thần khác trong hệ thống thần Lưỡng Hà, nhưng nhiều khi nó cũng được xem như tôn giáo [[Thuyết độc thần|độc thần]].{{Sfn|Mark|2016|p=}} Lịch sử thờ cúng Marduk gắn bó mật thiết với lịch sử của Babylon và khi quyền lực của Babylon tăng lên, vị trí của Marduk cũng được nâng cao so với các vị thần Lưỡng Hà khác. Vào cuối thiên niên kỷ thứ hai TCN, đôi khi Marduk chỉ được nhắc đến như là ''Bêl'', có nghĩa là "chúa tể".{{Sfn|Leick|2009|p=348}} Bức tượng Marduk được xem là hiện thân của Marduk nằm trong ngôi đền chính Esagila của Babylon,{{Sfn|Mark|2016|p=}} được sử dụng trong các nghi lễ quan trọng của thành phố.{{Sfn|Dalley|1997|p=163}}
 
Những ngôi đền ở miền nam Lưỡng Hà đóng vai trò là trung tâm tôn giáo và kinh tế của mỗi thành phố. Chúng có mặt ở tất cả các thành phố lớn, và góp phần kích thích tăng trưởng thương mại và dân số.'''{{Sfn|Wunsch|2012|p=45}}'''
 
=== Công lý ===
[[Tập tin:Tablet_in_Akkadian_recording_a_court_order_to_settle_an_account_concerning_barley,_Uruk,_544_BC,_clay_-_Oriental_Institute_Museum,_University_of_Chicago_-_DSC07092.JPG|nhỏ| Phiến đất sét liên quan đến tranh chấp pháp lý về lúa mạch, từ [[Uruk]] và có niên đại từ thời Nabonidus (544 TCN). Triển lãm tại Viện Đông Phương học của Đại học Chicago. ]]
Các nguồn còn sót lại cho thấy hệ thống pháp lý của Đế chế Tân Babylon không thay đổi nhiều so với thời Đế chế Cổ Babylon từ một ngàn năm trước. Trên khắp Babylonia, có các hội đồng địa phương (được gọi là ''puhru'') của các bô lão và những người đáng kính khác trong xã hội, hoạt động như là tòa án công lý địa phương (ở bên trên còn có "hoàng gia" và "đền thờ" với các đặc quyền pháp lý lớn hơn). Tại các tòa án này, thẩm phán sẽ được hỗ trợ bởi các kinh sư và một số tòa án địa phương được chủ quản bởi các đại diện hoàng gia, thường có tước hiệu là ''sartennu'' hoặc ''šukallu''.'''''{{Sfn|Oelsner|Wells|Wunsch|2003|p=|pp=918–920}}{{Sfn|Roth|1995|pp=143–149}}'''''
 
Phần lớn các nguồn còn sót lại liên quan đến hệ thống pháp lý Tân Babylon là các [[phiến đất sét]] ghi chép lại thư từ và các vụ kiện tụng. Những phiến đất sét này ghi lại các tranh chấp pháp lý và tội phạm khác nhau, chẳng hạn như tham ô, tranh chấp tài sản, [[trộm cắp]], các vấn đề gia đình, [[Nợ|nợ nần]], [[thừa kế]] và thường cung cấp cái nhìn sâu sắc về cuộc sống hàng ngày ở Đế quốc Tân Babylon. Hình phạt cho các loại tội phạm và tranh chấp này phần lớn là phạt tiền: bên có tội phải trả một số lượng bạc cụ thể như một khoản bồi thường. Những tội như [[Thông gian|ngoại tình]] hay phỉ báng hoàng gia là [[Tử hình|tội tử hình]], nhưng có rất ít bằng chứng còn tồn tại cho thấy án tử hình thực sự được thực hiện.'''''{{Sfn|Oelsner|Wells|Wunsch|2003|p=|pp=961–967}}'''''
 
=== Nghệ thuật ===
[[Tập tin:Striding_lions_-_Processional_Way_of_Babylon_-_Pergamonmuseum_-_Berlin_-_Germany_2017.jpg|trái|nhỏ| Hình ảnh sư tử trên Con đường diễu hành ở [[Babylon]]. [[Bảo tàng Pergamon]] ở [[Berlin]]. ]]
Thời kỳ Tân Babylon tiếp tục xu hướng nghệ thuật của các thời kỳ trước, cụ thể là thời kỳ Tân Assyria. Các con dấu hình trụ thời này ít chi tiết hơn trước và cho thấy ảnh hưởng nhất định của Assyria trong các chủ đề được mô tả. Một trong những hình ảnh phổ biến nhất được miêu tả trên các con dấu là người anh hùng, đôi khi có cánh, chuẩn bị tấn công quái thú bằng kiếm cong. Những cảnh phổ biến khác bao gồm cảnh thanh tẩy cây thiêng hoặc sinh vật thần thoại. Các con dấu hình trụ ngày càng ít được sử dụng trong suốt thế kỷ Tân Babylon, cuối cùng bị thay thế hoàn toàn bởi các con dấu đóng dấu.'''{{Sfn|André-Salvini|2008|pp=222–223}}'''
[[Tập tin:Babylonian_-_Female_Mesopotamian_Figure_-_Walters_481807.jpg|nhỏ| [[Terracotta|Bức]] tượng [[Terracotta|đất nung]] Tân Babylon mô tả một người phụ nữ khỏa thân. Bảo tàng Nghệ thuật Walters ở [[Baltimore]]. ]]
Tượng và phù điêu [[Terracotta|đất nung]] được làm bằng khuôn rất phổ biến ở Đế chế Tân Babylon. Những bức tượng được tìm thấy thường thể hiện những con quỷ bảo hộ (như Pazuzu) hoặc các vị thần, nhưng cũng có cả kỵ sĩ, phụ nữ khỏa thân, thuyền, người vác bình và nhiều loại đồ đạc. Những bức tượng đất nung có thể là những linh vật được giữ trong nhà của mọi người để làm phép giữ nhà hoặc trang trí, nhưng cũng có thể là những đồ vật được dâng lên các vị thần trong đền thờ.'''{{Sfn|André-Salvini|2008|p=173}}{{Sfn|André-Salvini|2008|p=|pp=218–220}}'''
[[Tập tin:Baylonianmaps.JPG|nhỏ| Phiến đất sét chứa "bản đồ thế giới" thế kỷ thứ 6 TCN của Babylon, với [[Babylon]] ở trung tâm. [[Bảo tàng Anh]]. ]]
Kỹ thuật [[Men gốm|tráng men màu]] đã được cải tiến và hoàn thiện bởi các nghệ nhân Tân Babylon. Trong các bức phù điêu, chẳng hạn như ở trên [[Cổng Ishtar]] ở Babylon và dọc theo Đường diễu hành của thành phố (nơi diễn ra các cuộc diễu hành trong các lễ hội tôn giáo), những viên gạch được đúc thành nhiều hình dạng khác nhau và tráng men màu để trang trí. Hầu hết các họa tiết trang trí này bao gồm sư tử và hoa (biểu tượng của nữ thần [[Inanna|Ishtar]]), mušḫuššu (một sinh vật thần thoại gắn với thần Marduk) và bò (gắn với thần Adad).'''{{Sfn|André-Salvini|2008|p=|pp=158–160}}{{Sfn|André-Salvini|2008|p=|pp=200–206}}'''
 
=== Sự hồi sinh của truyền thống cổ ===
Sau khi Babylonia giành lại độc lập, các nhà cai trị Tân Babylon có ý thức sâu sắc về bề dày lịch sử của đế quốc và theo đuổi chính sách đề cao truyền thống, làm sống lại phần lớn văn hóa [[Văn minh cổ Babylon|Sumer-Akkad]] cổ đại. Mặc dù [[Tiếng Aram]] đã trở thành ngôn ngữ phổ thông, tiếng Akkad vẫn được dùng làm ngôn ngữ hành chính và văn hóa.'''''{{Sfn|George|2007|p=60}}'''''
 
Các tác phẩm nghệ thuật cổ đại từ thời hoàng kim của đế quốc Babylon cổ được sùng bái hết mức và bảo tồn cẩn thận. Ví dụ, khi một bức tượng của [[Sargon của Akkad|Sargon Đại đế]] được tìm thấy trong quá trình xây dựng, một ngôi đền đã được dựng lên để thờ cúng bức tượng. Có một câu chuyện về việc [[Naboukhodonosor II|Nebuchadnezzar II]] trong khi dựng lại Đền Sippar, đã phải khai quật nhiều lần cho đến khi tìm thấy nền móng cũ từ thời Naram-Sin của Akkad để xây dựng lại ngôi đền cho đúng cách. Người Tân Babylon cũng hồi sinh tập tục Akkad cổ đại là bổ nhiệm một thiếu nữ hoàng tộc làm nữ tư tế của thần mặt trăng [[Sin (thần thoại)|Sîn]].'''{{Sfn|Jonker|1995|p=|pp=167–168}}{{Sfn|Sack|2004|p=|pp=78–79}}'''
 
=== Nô lệ ===
Như trong hầu hết các đế chế cổ đại, nô lệ được chấp nhận tại xã hội Tân Babylon. Nô lệ ở Đế quốc Tân Babylon là tài sản quý giá, thường được bán với mức giá bằng nhiều năm thu nhập của một người làm công. Nô lệ thường được đem tới từ những vùng đất bên ngoài Babylonia thông qua buôn bán nô lệ hoặc là tù nhân chiến tranh. Nữ nô lệ thường được coi như một phần của hồi môn được dành cho con gái đi lấy chồng để giúp việc nhà hoặc làm vú em. Bởi vì nô lệ rất đắt nên nhiều chủ nô Tân Babylon đã cho nô lệ học nghề để nâng cao giá trị hoặc cho người khác thuê lại. Đôi khi có những nô lệ có năng khiếu buôn bán sẽ được cho đi làm buôn bán hoặc quản lý việc kinh doanh của gia đình. Các gia đình nô lệ thường được bán cùng nhau, trẻ em chỉ được tách khỏi cha mẹ khi đến tuổi trưởng thành (hoặc tuổi lao động).'''{{Sfn|Wunsch|2012|p=50}}'''
 
Mặc dù nô lệ có thể phải chịu đựng điều kiện sống khắc nghiệt và bị đối xử tệ bạc, nhưng nó không đến mức tàn bạo như chế độ nô lệ ở Đế chế La Mã hay ở các thời sau này.'''{{Sfn|Wunsch|2012|p=50}}''' Mặc dù thỉnh thoảng có đề cập đến việc nô lệ bỏ trốn, nhưng không có ghi chép nào về các cuộc khởi nghĩa nô lệ trong Đế chế Tân Babylon. Nô lệ được nhắc đến trong nông nghiệp và trồng trọt thường không phải là lao động cưỡng bức. Vì việc canh tác đòi hỏi sự cần cù chăm sóc, nô lệ tại các trang trại thường được ký khế ước và làm việc tự chủ, điều này giúp cho nô lệ quan tâm nhiều hơn đến kết quả lao động. Một số nô lệ đóng vai trò như là người thay mặt hoặc hầu cận của chủ nhân. Nô lệ cũng được phép trả một khoản phí gọi là ''mandattu'' cho chủ nô để làm việc và sống độc lập, về cơ bản là "thuê" chính mình từ chủ nô. Có những ghi chép về việc nô lệ trả tiền ''mandattu'' cho chính mình và vợ để sống tự do. Tuy nhiên, không có ghi chép nào về việc nô lệ có thể tự chuộc thân hoàn toàn, nô lệ Babylon chỉ có thể được giải phóng bởi chính chủ nhân của họ.'''{{Sfn|Wunsch|2012|p=51}}'''
 
== Kinh tế ==
Sau khi đế chế Tân Babylon phục khởi, lần đầu tiên kể từ khi thời Assyria đô hộ, Babylonia trở thành "thiên triều" được hưởng cống nạp chứ không phải là nước đi cống nạp. Sự đảo ngược này, kết hợp với các dự án xây dựng và dòng di cư của các dân tộc bị khuất phục, đã kích thích tăng trưởng cả dân số và kinh tế trong khu vực.'''{{Sfn|Wunsch|2012|p=40}}'''
 
Mặc dù đất đai ở Lưỡng Hà rất màu mỡ, nhưng lượng mưa trung bình trong khu vực không đủ để duy trì canh tác thường xuyên. Vì vậy, hệ thống kênh, đập và đê điều quy mô lớn phức tạp ra đười để lấy nước từ hai con sông lớn là Euphrates và Tigris và phòng chống lũ lụt. Hệ thống này đòi hỏi phải bảo trì và giám sát liên tục.'''{{Sfn|Wunsch|2012|p=42}}''' Đào kênh be bờ được coi là một nhiệm vụ của hoàng gia và các ngôi đền chịu trách nhiệm cung ứng nguồn nhân và vật lực cần thiết để xây dựng và duy trì cơ sở hạ tầng.'''{{Sfn|Wunsch|2012|p=43}}'''
[[Tập tin:Irrigation_canal_Fira_Shia,_Iraq_(1).jpg|nhỏ| Kênh tưới tiêu ở [[Iraq]] thời hiện đại, gần [[Bagdad|Baghdad]]. ]]
Những ghi chép chi tiết nhất về kinh tế ở thời Tân Babylon là từ những ngôi đền này. Người canh tác trong các lãnh địa của đền thờ hầu hết là nông nô phụ thuộc đền thờ (''širāku'''{{Sfn|MacGinnis|2010|p=157}}'''''). Về sau, để tăng năng suất, các đền thờ bắt đầu thuê "nông dân địa tô". Những người này được giao một phần hoặc toàn bộ ruộng đất của đền thờ, bao gồm cả nông nô và tư liệu sản xuất, đổi lại họ sẽ nộp lại tô và một lượng sản phẩm cố định cho đền.'''{{Sfn|Wunsch|2012|p=43}}''' Nông dân địa tô phải chịu trách nhiệm hoàn toàn nếu không nộp đủ hạn ngạch, có nhiều ghi chép cho thấy nông dân địa tô bỏ ruộng hoặc đôi khi phải gán nợ tài sản để bồi thường cho đền thờ.'''{{Sfn|Wunsch|2012|p=44}}'''
 
[[Chăn nuôi]] được áp dụng trên khắp Lưỡng Hà nhưng phổ biến nhất là ở miền Nam. Ở Uruk, chăn nuôi là nguồn thu nhập chính. Những người chăn cừu có thể là nông nô của đền thờ hoặc là người làm thuê tự do được giao cho đàn cừu hoặc dê. Tương tự như nông dân địa tô, những người chăn cừu này cũng cấn nộp một lượng cừu nhất định cho đền để hiến tế và lấy len hay da.'''{{Sfn|Wunsch|2012|p=44}}''' Các sản phẩm từ sữa không phổ biến vì phần lớn thời gian trong năm, súc vật không ở cố định một chỗ mà được chăn thả du mục khắp nơi. Bò không có nhiều ở Lưỡng Hà do thức ăn khan hiếm trong mùa hè, chủ yếu được sử dụng để lấy sức kéo. Những vùng đầm lầy không thích hợp để canh tác thì chủ yếu là săn bắn chim và cá.'''{{Sfn|Wunsch|2012|p=45}}'''
 
Hình thức hợp tác kinh doanh phổ biến nhất được ghi lại là ''harrānu'', gồm một đối tác ra vốn và một đối tác vai vế thấp hơn thực hiện công việc (sử dụng vốn được cung cấp để làm tất cả công việc). Lợi nhuận được chia đều giữa hai đối tác. Điều này cho phép người có tiền có thể tài trợ cho người có khả năng nhưng không có nguồn lực (ví dụ như những người con trai thứ không được thừa kế nhiều tiền như con trai đầu). Những ghi chép cho thấy một số đối tác vế dưới đã điều hành hoạt động kinh doanh hiệu quả và cuối cùng trở thành đối tác vế trên trong các thỏa thuận ''harrānu'' mới.'''{{Sfn|Wunsch|2012|p=52}}'''
 
Thời kỳ Tân Babylon đã chứng kiến sự gia tăng dân số rõ rệt ở Babylonia, với số lượng các khu định cư đã biết tăng từ 134 thời trước đó đến 182 thời Tân Babylonia và tăng cả quy mô trung bình.'''{{Sfn|Baker|2012|p=917}}''' Thời kỳ Tân Babylon này cũng diễn ra sự [[đô thị hóa]] mạnh mẽ, đảo ngược xu hướng [[Đồng quê|nông thôn hóa]] ở miền nam Lưỡng Hà kể từ sau khi Đế chế Babylon cổ sụp đổ.'''''{{Sfn|Brinkman|1984|p=7}}'''''
 
== Chính phủ và quân đội ==
 
=== Quản lí hành chính ===
[[Tập tin:Median_Empire-en.svg|trái|nhỏ| Biên giới ước đoán của Đế quốc Tân Babylon (màu đỏ) và các quốc gia lân cận vào thế kỷ thứ 6 TCN. ]]
Đứng đầu Đế chế Tân Babylon là vua (''šar''), được thần dân tuyên thệ lòng trung thành (được gọi là ''ade''), một truyền thống kế thừa từ Đế chế Tân Assyria. Các vị vua Tân Babylon sử dụng các danh hiệu Vua Babylon và Vua của Sumer và Akkad. Họ bãi bỏ nhiều danh hiệu phù phiếm thời Tân Assyrian như là Vua của toàn vũ trụ (mặc dù một số lại được sử dụng dưới thời Nabonidus), có thể vì người Babylon căm ghét hình ảnh hiếu chiến và nghịch đạo của người Assyria, còn các vị vua Tân Babylon muốn tỏ ra là những vị vua sùng đạo.'''''{{Sfn|Beaulieu|2003|pp=1–9}}'''''
 
Nhà vua cũng là người chủ sở hữu đất đai lớn nhất trong đế chế, với nhiều vùng đất rộng lớn nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của hoàng gia trên khắp Babylonia. Ngoài ra còn có các lãnh địa lớn thuộc về các thành viên khác của hoàng gia (ví dụ, có bản khắc đề cập đến một "tư dinh của thái tử" phân biệt với "cung điện của nhà vua") và các quan chức cấp cao khác (như quan coi quốc khố).'''{{Sfn|Wunsch|2012|p=43}}'''
 
Vì thiếu tư liệu nên có nhiều điều chưa rõ về cơ cấu hành chính và chính phủ của Đế quốc Tân Babylon. Mặc dù Đế quốc Tân Babylon đã thay thế vị trí của Đế chế Tân Assyria, nhưng chưa thể xác định được phần lãnh thổ mà Babylon được thừa hưởng. Sau khi Nineveh thất thủ vào năm 612 TCN, lãnh thổ của Đế quốc Tân Assyria bị Babylon và Media chia cắt, bên Media được chia vùng núi phía bắc Wapros còn Babylon chiếm Xuyên Lưỡng Hà (các nước phía tây Euphrates) và Levant, nhưng biên giới chính xác giữa hai đế chế và việc phân chia vùng trung tâm Assyria vẫn chưa được biết nhiều. Bản thân Babylonia, trung tâm của Đế chế Tân Babylon, được chia thành các tỉnh và bộ lạc với các mức độ tự trị khác nhau. Cấu trúc hành chính ở bên ngoài vùng trung tâm vẫn chưa rõ.'''''{{Sfn|MacGinnis|2010|p=153}}'''''
 
Từ những bản khắc trên các công trình xây dựng, có thể thấy một số phần của vùng trung tâm Tân Assyrian cũ nằm dưới sự kiểm soát của Babylon. Bản khắc trên một tòa nhà của Nebuchadnezzar II đề cập đến những người thợ phục dựng Etemenanki ở Babylon được ca tụng bởi "toàn bộ xứ Akkad và Assyria, các vị vua Eber-Nāri, các tổng trấn Hatti, từ Thượng Hải đến Hạ Hải". Các tài liệu từ thời Neriglissar xác nhận sự tồn tại của một tổng trấn người Babylon ở thành Assur, có nghĩa là nó thuộc lãnh thổ của đế chế. Không có bằng chứng cho thấy kinh đô cũ Nineveh của Assyria nằm trong Đế chế Tân Babylon. Việc Syria nằm dưới sự cai trị trực tiếp được thể hiện trong bản khắc trên tòa nhà của Nebuchadnezzar ("tổng trấn Hatti" - Hatti để chỉ thành bang Syro-Hitti trong khu vực) và các bản khắc khác đề cập đến một tổng trấn ở thành Arpad.'''''{{Sfn|MacGinnis|2010|p=154}}'''''
 
Mặc dù một số học giả cho rằng hệ thống tỉnh của Assyria sụp đổ cùng với Đế chế Tân Assyria và Đế chế Tân Babylon chỉ đơn giản là một vùng ảnh hưởng mà vua Babylon nhận được triều cống, nhưng cũng có khả năng Đế chế Tân Babylon giữ lại hệ thống tỉnh cũ. Vùng trung tâm Assyria cũ có lẽ được phân chia giữa người Babylon và người Media, người Babylon sát nhập miền nam vào đế chế còn người Media lấy miền bắc. Có thể là mức độ kiểm soát thực tế của Babylon ở mỗi vùng lãnh thổ này không giống nhau. Sau sự sụp đổ của Assyria, nhiều thành quốc ven biển ở Levant giành độc lập, nhưng làm chư hầu của Babylon (chứ không phải là các tỉnh hợp nhất).'''''{{Sfn|MacGinnis|2010|p=156}}'''''
 
=== Quân đội ===
[[Tập tin:Xerxes_I_tomb_Babylonian_soldier_circa_470_BCE.jpg|nhỏ|283x283px| Hình ảnh binh sĩ Babylon điêu khắc trên lăng mộ [[Xerxes I]] của [[Đế quốc Achaemenes|Achaemenes]], {{Circa|}} 480 TCN. ]]
Đối với các vị vua Tân Babylon, chiến tranh là một phương tiện để thu cống nạp, cướp bóc (đặc biệt là các vật liệu hiếm như kim loại và gỗ) và tù binh để dùng làm nô lệ. Giống như người Assyria, các vị vua Tân Babylon cũng kiểm soát dân chúng bằng biện pháp lưu đày. Người Assyria đã tái phân bổ dân cư trên khắp đế chế rộng lớn của họ, nhưng cách thức này đến thời các vị vua Babylon bị hạn chế hơn, chỉ được sử dụng để thành lập các khu dân cư mới ở chính Babylonia. Mặc dù các bản khắc hoàng gia thời Tân Babylon không nói về các hành động hủy diệt và trục xuất huênh hoang như thời Tân Assyria, nó không có nghĩa là người Babylon không thực hiện hoặc thực hiện ít tàn bạo hơn người Assyria. Chẳng hạn, có bằng chứng cho thấy thành phố [[Ashkelon]] đã bị Nebuchadnezzar II phá hủy vào năm 604 TCN.'''''{{Sfn|Beaulieu|2005|p=|pp=57–58}}{{Sfn|Stager|1996|p=|pp=57–69, 76–77}}'''''
 
Quân đội của Đế quốc Tân Babylon huy động từ tất cả đơn vị hành chính - các thành phố của Babylonia, các tỉnh ở Syria và Assyria, các liên minh bộ lạc thần phục Babylon và các thành quốc chư hầu ở Levant.'''''{{Sfn|MacGinnis|2010|p=156}}''''' Các nguồn chi tiết nhất còn lại từ thời Tân Babylon có đề cập đến quân đội là từ các ngôi đền, nơi cung cấp một phần dân cư phụ thuộc đền thờ (được gọi là ''širāku'') để nhập ngũ trong thời chiến. Những người này chủ yếu là nông dân (''ikkaru'') nhưng một số người cũng là mục đồng, thợ làm vườn và thợ thủ công. Phần lớn quân sĩ lấy từ các đền thờ phục vụ trong quân đội ở vị trí cung thủ, được trang bị bởi đền thờ.'''''{{Sfn|MacGinnis|2010|p=157}}''''' Kỵ binh và chiến xa cũng do đền thờ cung cấp, nhưng ít được nhắc đến trong các bản khắc.'''''{{Sfn|MacGinnis|2010|p=158}}'''''
 
Công dân của các thành phố ở Babylonia có nghĩa vụ tham gia quân ngũ bắt buộc, thường là phục vụ ở vị trí cung thủ. Lực lượng dân quân này, giống lực lượng cung thủ từ đền thờ, được phân chia và tổ chức theo nghề nghiệp. Công dân tđi lính được trả lương bằng bạc, có thể ở mức 1 mina mỗi năm.'''''{{Sfn|MacGinnis|2010|p=159}}''''' Quân đội Tân Babylon cũng có thể đã bắt người từ các bộ lạc sung quân và thuê cả lính đánh thuê chuyên nghiệp (lính đánh thuê Hy Lạp trong quân đội của Nebuchadnezzar II được nhắc đến trong một bài thơ). Binh sĩ tham gia các chiến dịch (có thể kéo dài từ ba tháng đến cả năm) được cấp theo khẩu phần (bao gồm lúa mạch và cừu), trả lương bằng bạc, muối, dầu và bình nước, và cũng được trang bị chăn, lều, bao tải, giày, áo chẽn và lừa hoặc ngựa.'''''{{Sfn|MacGinnis|2010|p=160}}'''''
 
== Kiến trúc ==
 
=== Kiến trúc đền đài ===
[[Tập tin:Pergamonmuseum_Ishtartor_05.jpg|nhỏ| [[Cổng Ishtar]], một trong tám cổng nội thành của [[Babylon]], được xây dựng bởi vua [[Naboukhodonosor II|Nebuchadnezzar II]] {{Circa|}} 575 TCN. Cổng được phục dựng và trưng bày tại [[Bảo tàng Pergamon]] ở [[Berlin]]. ]]
Kiến trúc đền đài bao gồm các công trình như đền thờ, cung điện, [[ziggurat]], tường thành, phố diễu hành, kênh mương và các công trình phòng thủ.'''{{Sfn|Baker|2012|p=923}}''' Vai trò truyền thống của nhà vua Babylon là người xây dựng và phục chế, và các dự án xây dựng quy mô lớn như vậy đóng vai trò khẳng định tính chính danh cho các vị vua.'''{{Sfn|Porter|1993|p=66}}''' Do công việc khai quật ban đầu thường hướng đến các đền đài đồ sộ ở trung tâm các thành phố lớn của Babylonia, các kiến thức khảo cổ về Đế quốc Tân Babylon thường xoay quanh những đối tượng này mà bỏ qua kết cấu của thành phố (như khu dân cư) và các định cư nhỏ hơn.'''{{Sfn|Baker|2012|p=915}}'''
 
Mặc dù các bản khắc nhắc đến các cung điện hoàng gia tại một số thành phố trên khắp miền nam Lưỡng Hà, nhưng chúng chỉ được mới tìm thấy và khai quật tại chính Babylon. Cung điện phía Nam, nằm ở góc giao của tường thành phía bắc và Euphrates ở phía tây, được xây dựng dưới thời vua Nabopolassar và Nebuchadnezzar II và bao gồm năm cụm, mỗi cụm có một sân riêng. Trung tâm của các cụm là phòng ở và chính điện đặt ngai vàng, còn các cụm khác dành cho mục đích hành chính và lưu trữ. Cung điện tiếp giáp với Phố diễu hành ở phía đông và được phòng thủ cẩn mật ở phía tây (phía đối diện với Euphrates).'''{{Sfn|Baker|2012|p=924}}'''
[[Tập tin:Babylon_map.png|trái|nhỏ| Sơ đồ thành phố của [[Babylon]], cho thấy các địa điểm chính. Thành ngoại và Cung điện mùa hè phía bắc không được hiển thị. ]]
Nebuchadnezzar II cũng đã xây dựng một cung điện thứ hai, Cung điện phía Bắc, ở phía bên kia của thành nội. Cung điện này cũng tiếp giáp với Phố diễu hành ở phía đông, nhưng do hư hại nhiều nên vẫn chưa rõ về kiến trúc của nó. Ngoài ra còn có một cung điện hoàng gia thứ ba trong thành phố, Cung điện mùa hè, được xây dựng ở góc cực bắc của thành ngoại (cũng được xây dựng bởi Nebuchadnezzar II). Các dinh thự phi hoàng gia, như tư dinh của một tổng trấn địa phương tại Ur, cũng có các đặc điểm thiết kế với Cung điện phía Nam của Babylon nhưng có kích thước nhỏ hơn đáng kể.'''{{Sfn|Baker|2012|p=924}}'''
[[Tập tin:Etemenanki_Berlin.jpg|nhỏ| Tái hiện [[Etemenanki]], Đại [[ziggurat]] của [[Babylon]]. ]]
Các đền thờ Tân Babylon được các nhà khảo cổ chia thành hai loại; những ngôi đền độc lập nhỏ hơn nằm rải rác trong một thành phố (thường là trong các khu dân cư) và những ngôi đền chính lớn của thành phố, dành riêng cho vị thần bảo trợ và thường có tường bao riêng.'''{{Sfn|Baker|2012|p=924}}''' Ở hầu hết các thành phố, ziggurat nằm trong quần thể đền thờ. Riêng ziggurat ở Babylon, được gọi là [[Etemenanki]], có khu phức hợp riêng và các tường bao tách biệt với ngôi đền chính của thành phố, Esagila. Đền thờ Tân Babylon kết hợp chức năng của cả cung điện và nhà ở. Chúng có sân trung tâm, hoàn toàn khép kín ở tất cả các phía, với phòng chính dành riêng cho vị thần, thường được đặt ở phía nam, lối vào của ngôi đền nằm ở phía đối diện với phòng chính này. Một số ngôi đền, chẳng hạn như đền Ninurta ở Babylon, có một sân duy nhất, trong khi những ngôi đền khác, chẳng hạn như đền thờ Ishtar ở Babylon, có các sân khác nhỏ hơn ngoài sân chính.'''{{Sfn|Baker|2012|p=925}}'''
[[Tập tin:Stamped_mud-brick_with_a_cuneiform_text,_procession_street,_Babylon,_Iraq.jpg|nhỏ| Gạch bùn trên Phố diễu hành của Babylon được khắc tên [[Naboukhodonosor II|Nebuchadnezzar II]]. ]]
Mặc dù có nhiều Đường diễu hành được mô tả trong các bản khắc từ thời Tân Babylon, nhưng chỉ mới khai quật được duy nhất Đường diễu hành chính của Babylon. Con đường này chạy dọc theo các bức tường phía đông của Cung điện phía Nam và ra khỏi Thành nội tại Cổng Ishtar, chạy qua Cung điện phía Bắc. Ở phía nam, con đường này đi qua Etemenanki, rẽ về phía tây và đi qua một cây cầu được xây dựng dưới triều đại của Nabopolassar hoặc Nebuchadnezzar II. Một số viên gạch của Phố diễu hành khắc tên của vua Tân Assyria Sennacherib ở mặt dưới, cho thấy việc xây dựng con đường đã bắt đầu từ thời của ông, nhưng mặt trên của các viên gạch đều khắc tên của Nebuchadnezzar II, cho thấy việc xây dựng đường phố được hoàn thành ở thời này.'''{{Sfn|Baker|2012|p=925}}'''
 
Nebuchadnezzar II cũng đã xây dựng hai dải tường phòng thủ xuyên quốc gia. Hiện chỉ mới xác định được chính xác một dải tường tên ''Habl al-Shar'' trải dài từ Euphrates đến Tigris tại đoạn hai con sông gần nhau nhất, nằm ở phía bắc thành phố Sippar. Dải tường kia chưa được tìm thấy, nằm ở phía đông gần thành phố Kish.'''{{Sfn|Baker|2012|p=925}}''' Nebuchadnezzar tập trung các dự án xây dựng phòng thủ của mình ở phía bắc Babylonia vì lo ngại khu vực này dễ bị tấn công nhất, và cũng xây dựng lại tường thành của các thành phố phía bắc như Kish, Borsippa và Babylon, còn của Ur và Uruk thì để như cũ.'''{{Sfn|Baker|2012|p=926}}'''
 
=== Kiến trúc dân dụng ===
Những ngôi nhà dân điển hình thời Tân Babylon có kết cấu cụm phòng ở bao quanh một khoảng sân trung tâm không có mái che. Một số ngôi nhà lớn hơn có hai hoặc ba sân (chỉ trong những ngôi nhà đặc biệt lớn). Hầu hết các ngôi nhà theo hướng đông nam đến tây bắc, với khu vực sinh hoạt chính (phòng lớn nhất) nằm ở phía đông nam. Tường rào bên ngoài nhà không được trang trí, trống trơn và không có cửa sổ. Lối vào chính thường nằm ở cuối nhà, cách xa khu vực sinh hoạt chính. Nhà của những người có địa vị cao hơn thường đứng biệt lập, trong khi những ngôi nhà có địa vị thấp hơn có thể có chung tường rào với nhà hàng xóm.'''{{Sfn|Baker|2012|p=926}}'''
 
Những ngôi nhà thời Tân Babylon được xây dựng chủ yếu bằng gạch bùn phơi khô. Chỉ có một số bộ phận, chẳng hạn gạch lát trong các phòng có nước và trong sân, mới sử dụng gạch nung, như loại dùng xây tường thành của Nebuchadnezzar. Mái nhà được làm từ gỗ phủ phên sậy, trên cùng phủ rơm khô.'''{{Sfn|Baker|2012|p=926}}'''
 
== Xem thêm ==
 
* [[Lịch sử Lưỡng Hà]]
 
== Ghi chú ==
<references group="n"></references>
 
== Dẫn nguồn ==
{{Tham khảo|20em}}
 
=== Thư mục ===
 
* {{Chú thích sách|title=Babylone|last=André-Salvini|first=Béatrice|publisher=Musée du Louvre|year=2008|isbn=9782350311739|location=|pages=|ref=CITEREFAndré-Salvini2008}}
* {{Chú thích sách|title=A Companion to the Archaeology of the Ancient Near East|last=Baker|first=Heather D.|publisher=Blackwell Publishing Ltd.|year=2012|isbn=9781405189880|editor-last=Potts|editor-first=D. T.|location=|pages=914–930|chapter=The Neo-Babylonian Empire|doi=10.1002/9781444360790.ch49|ref=CITEREFBaker2012}}
* {{Chú thích sách|title=Reign of Nabonidus, King of Babylon (556-539 BC)|last=Beaulieu|first=P. A.|publisher=New Haven|year=1989|isbn=9780300241532|location=|pages=|ref=CITEREFBeaulieu1989}}
* {{Chú thích tạp chí|last=Beaulieu|first=P. A.|date=2003|title=Nabopolassar and the Antiquity of Babylon|url=|journal=Eretz-Israel|volume=27|pages=|ref=CITEREFBeaulieu2003|via=}}
* {{Chú thích sách|title=A Companion to the Ancient Near East|last=Beaulieu|first=P. A.|publisher=Oxford University Press|year=2005|isbn=978-1405160018|editor-last=Snell|editor-first=D. C.|location=|pages=|chapter=World Hegemony, 900–300 BCE|ref=CITEREFBeaulieu2005}}
* {{Chú thích sách|title=Gods, Demons, and Symbols of Ancient Mesopotamia: An Illustrated Dictionary|last=Black|first=Jeremy|last2=Green|first2=Anthony|publisher=University of Texas Press|year=1992|isbn=0-292-70794-0|location=|pages=|ref=CITEREFBlackGreen1992}}
* {{Chú thích sách|url=https://archive.org/details/Prelude_to_empireBabylonianSocietyAndPolitics747-626Bc/page/n11|title=Prelude to Empire: Babylonian Society and Politics, 747-626 B.C.|last=Brinkman|first=J. A.|publisher=University of Pennsylvania Museum of Archaeology and Anthropology|year=1984|isbn=978-0934718622|location=|pages=|ref=CITEREFBrinkman1984}}
* {{Chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=O2VnjMAwNqUC|title=The Kingdom of the Hittites|last=Bryce|first=Trevor|publisher=Oxford University Press|year=2005|isbn=978-0-19-928132-9|location=|pages=|ref=CITEREFBryce2005}}
* {{Chú thích sách|url=https://books.google.com/?id=MC_nBQAAQBAJ&pg=PA98&lpg=PA98&dq=ancestry+of+nabopolassar#v=onepage|title=The Inscriptions of Nabopolassar, Amel-Marduk and Neriglissar|last=Da Riva|first=Rocío|publisher=Walter de Gruyter|year=2013|isbn=978-1614515876|location=|pages=|ref=CITEREFDa Riva2013}}
* {{Chú thích tạp chí|last=Dalley|first=Stephanie|date=1997|title=Statues of Marduk and the date of Enūma eliš|journal=Altorientalische Forschungen|volume=24|issue=1|pages=163–171|doi=10.1524/aofo.1997.24.1.163|ref=CITEREFDalley1997}}
* {{Chú thích sách|url=https://books.google.com/?id=ms30qA6nyMsC&pg=PA185&lpg=PA184&vq=shamash-eriba&dq=dandamaev#v=onepage|title=A Political History of the Achaemenid Empire|last=Dandamaev|first=Muhammad A.|publisher=BRILL|year=1989|isbn=978-9004091726|location=|pages=|ref=CITEREFDandamaev1989}}
* {{Chú thích tạp chí|last=Dandamaev|first=Muhammad A.|date=1993|title=Xerxes and the Esagila Temple in Babylon|journal=Bulletin of the Asia Institute|volume=7|pages=41–45|jstor=24048423|ref=CITEREFDandamaev1993}}
* {{Chú thích sách|url=https://books.google.com/?id=B1ZKAwAAQBAJ&dq=%22Neo-Babylonian+Empire%22|title=Nabonidus and Belshazzar: A Study of the Closing Events of the Neo-Babylonian Empire|last=Dougherty|first=Raymond Philip|publisher=Wipf and Stock Publishers|year=2008|isbn=978-1556359569|location=|pages=|ref=CITEREFDougherty2008}}
* {{Chú thích tạp chí|last=George|first=Andrew|date=2007|title=Babylonian and Assyrian: A history of Akkadian|url=https://eprints.soas.ac.uk/3139/1/PAGE_31-71.pdf|journal=The Languages of Iraq|volume=|pages=31–71|ref=CITEREFGeorge2007|via=}}
* {{Chú thích tạp chí|last=Goetze|first=Albrecht|date=1964|title=The Kassites and near Eastern Chronology|journal=Journal of Cuneiform Studies|volume=18|issue=4|pages=97–101|doi=10.2307/1359248|jstor=1359248|ref=CITEREFGoetze1964}}
* {{Chú thích tạp chí|last=Hanish|first=Shak|date=2008|title=The Chaldean Assyrian Syriac people of Iraq: an ethnic identity problem|url=https://go.galegroup.com/ps/anonymous?id=GALE%7CA240186433&sid=googleScholar&v=2.1&it=r&linkaccess=abs&issn=10604367&p=AONE&sw=w|journal=Digest of Middle East Studies|volume=17|issue=1|pages=32–47|doi=10.1111/j.1949-3606.2008.tb00145.x|ref=CITEREFHanish2008|via=}}
* {{Chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=91iU0ZT-x3wC&pg=PA46|title=Persian Fire: The First World Empire and the Battle for the West|last=Holland|first=Tom|publisher=Random House Digital, Inc|year=2007|isbn=9780307386984|location=|pages=|ref=CITEREFHolland2007}}
* {{Chú thích sách|url=https://books.google.com/?id=ZKSODwAAQBAJ&dq=Nebuchadnezzar+Naram-Sin+foundation|title=The Topography of Remembrance: The Dead, Tradition and Collective Memory in Mesopotamia|last=Jonker|first=Gerdien|publisher=BRILL|year=1995|isbn=978-9004101623|location=|pages=|ref=CITEREFJonker1995}}
* {{Chú thích tạp chí|last=Lange|first=Dierk|date=2011|title=Origin of the Yoruba and "The Lost Tribes of Israel"|url=http://www.baytagoodah.com/uploads/9/5/6/0/95600058/lost_tribes_of_israel.pdf|journal=Anthropos|volume=106|issue=2|pages=579–595|doi=10.5771/0257-9774-2011-2-579|ref=CITEREFLange2011|via=}}
* {{Chú thích sách|url=https://books.google.com/?id=akYorRIWPBEC&dq=%22statue+of+Marduk%22|title=The Babylonian World|last=Leick|first=Gwendolyn|publisher=Routledge|year=2009|isbn=978-0415497831|location=|pages=|ref=CITEREFLeick2009}}
* {{Chú thích sách|url=https://books.google.com/?id=78nRWgb-rp8C&pg=PA18&lpg=PA18&dq=fall+of+nimrud+medes#v=onepage|title=The Fall and Rise of Jerusalem: Judah under Babylonian Rule|last=Lipschits|first=Oled|publisher=Eisenbrauns|year=2005|isbn=978-1575060958|location=|pages=|ref=CITEREFLipschits2005}}
* {{Chú thích sách|title=Imagining Babylon|last=Liverani|first=Mario|publisher=De Gruyter|year=2016|isbn=9781614516026|location=|pages=|ref=CITEREFLiverani2016}}
* {{Chú thích tạp chí|last=MacGinnis|first=John|date=2010|title=Mobilisation and Militarisation in the Neo-Babylonian Empire|url=https://www.academia.edu/9213966|journal=Studies on War in the Ancient Near East, AOAT 372|volume=|pages=153–163|ref=CITEREFMacGinnis2010|via=}}
* {{Chú thích tạp chí|last=Na’aman|first=Nadav|date=1991|title=Chronology and History in the Late Assyrian Empire (631—619 B.C.)|url=https://www.academia.edu/13458703|journal=Zeitschrift für Assyriologie|volume=81|issue=1–2|pages=243–267|doi=10.1515/zava.1991.81.1-2.243|ref=CITEREFNa’aman1991|via=}}
* {{Chú thích sách|title=A History of Ancient Near Eastern Law Vol. 1|last=Oelsner|first=Joachim|last2=Wells|first2=Bruce|last3=Wunsch|first3=Cornelia|publisher=BRILL|year=2003|isbn=978-90-04-12995-5|editor-last=Westbrook|editor-first=Raymond|location=|pages=|chapter=Neo Babylonian Period|ref=CITEREFOelsnerWellsWunsch2003}}
* {{Chú thích sách|url=https://books.google.com/?id=J6toY--R430C|title=Images, Power, and Politics: Figurative Aspects of Esarhaddon's Babylonian Policy|last=Porter|first=Barbara N.|publisher=American Philosophical Society|year=1993|isbn=9780871692085|location=|pages=|ref=CITEREFPorter1993}}
* {{Chú thích tạp chí|last=Radner|first=Karen|date=2019|title=Last Emperor or Crown Prince Forever? Aššur-uballiṭ II of Assyria according to Archival Sources|url=https://www.academia.edu/39300596|journal=State Archives of Assyria Studies|volume=28|issue=|pages=135–142|ref=CITEREFRadner2019|via=}}
* {{Chú thích sách|title=Law Collections from Mesopotamia and Asia Minor|last=Roth|first=Martha T.|publisher=Scholars Press|year=1995|isbn=9780788501043|location=|pages=|ref=CITEREFRoth1995}}
* {{Chú thích tạp chí|last=Sachs|first=A. J.|last2=Wiseman|first2=D. J.|date=1954|title=A Babylonian King List of the Hellenistic Period|journal=Iraq|volume=16|issue=2|pages=202–212|doi=10.2307/4199591|jstor=4199591|ref=CITEREFSachsWiseman1954}}
* {{Chú thích tạp chí|last=Sack|first=Ronald Herbert|date=1972|title=Amēl-Marduk 562-560 B. C. A Study Based on Cuneiform, Old Testament, Greek, Latin and Rabbinical Sources|url=|journal=Alter Orient und Altes Testament|volume=4|issue=|pages=|ref=CITEREFSack1972|via=}}
* {{Chú thích sách|url=https://books.google.com/?id=nxC1wF3_IEAC&pg=PA79&lpg=PA79&dq=Nebuchadnezzar+Naram-Sin+foundation#v=onepage|title=Images of Nebuchadnezzar: The Emergence of a Legend|last=Sack|first=Ronald Herbert|publisher=Susquehanna University Press|year=2004|isbn=978-1575910796|location=|pages=|ref=CITEREFSack2004}}
* {{Chú thích sách|url=https://books.google.com/books?id=9Cd5mcj7FL4C&pg=PA41|title=Midian, Moab and Edom: The History and Archaeology of Late Bronze and Iron Age Jordan and North-West Arabia|last=Sawyer|first=John F. A.|last2=J. A. Clines|first2=David|publisher=A&C Black|year=1983|isbn=978-0-567-17445-1|location=|pages=|ref=CITEREFSawyerClines1983}}
* {{Chú thích luận văn}}
* {{Chú thích tạp chí|last=van der Spek|first=R. J.|date=2001|title=The Theatre of Babylon in Cuneiform|journal=Veenhof Anniversary Volume: Studies Presented to Klaas R. Veenhof on the Occasion of His Sixty-fifth Birthday|volume=|pages=445–456|ref=CITEREFSpek2001}}
* {{Chú thích tạp chí|last=Stager|first=L. E.|date=1996|title=The fury of Babylon: Ashkelon and the archaeology of destruction|journal=Biblical Archaeology Review|volume=22|issue=1|pages=|ref=CITEREFStager1996|via=}}
* {{Chú thích sách|title=New Testament Survey|last=Tenney|first=Merrill|publisher=Eerdmans|year=1985|isbn=978-0802836113|location=|pages=|ref=CITEREFTenney1985}}
* {{Chú thích sách|url=https://archive.org/details/kinghammurabiofb00marc|title=King Hammurabi of Babylon: A Biography|last=Van De Mieroop|first=Marc|publisher=Blackwell Publishing|year=2005|isbn=978-1-4051-2660-1|location=|pages=|ref=CITEREFVan De Mieroop2005}}
* {{Chú thích tạp chí|last=Waerzeggers|first=Caroline|date=2004|title=The Babylonian Revolts Against Xerxes and the 'End of Archives'|journal=Archiv für Orientforschung|volume=50|pages=150–173|jstor=41668621|ref=CITEREFWaerzeggers2004}}
* {{Chú thích sách|url=https://archive.org/details/worldmythology0000unse|title=World Mythology|last=Willis|first=Roy|publisher=Metro Books|year=2012|isbn=978-1-4351-4173-5|location=|pages=|ref=CITEREFWillis2012}}
* {{Chú thích sách|title=Nebuchadnezzar and Babylon|last=Wiseman|first=D. J.|publisher=British Academy|year=1983|isbn=978-0197261002|location=|pages=|ref=CITEREFWiseman1983}}
* {{Chú thích sách|title=The Invention of Enterprise: Entrepreneurship from Ancient Mesopotamia to Modern Times|last=Wunsch|first=Cornelia|publisher=Princeton University Press|year=2012|isbn=978-0691154527|location=|pages=|chapter=Neo-Babylonian Entrepreneurs|ref=CITEREFWunsch2012|chapter-url=https://www.academia.edu/734418}}
* {{Chú thích tạp chí|last=Zara|first=Tom|date=2008|title=A Brief Study of Some Aspects of Babylonian Mathematics|url=https://digitalcommons.liberty.edu/honors/23/|journal=Liberty University: Senior Honors Theses|volume=23|issue=|pages=|ref=CITEREFZara2008|via=}}
 
=== Nguồn trang web ===
Với việc giành lại độc lập, nghệ thuật kiến trúc bước vào thời kì mới và con trai của Nabopolassar là [[Nebuchadnezzar II]] (605 TCN-562 TCN) đã biến Babylon thành một trong những kỳ quan của thế giới cổ đại. Nebuchadnezzar đã ra lệnh tái thiết lại các vùng đất, xây dựng lại ngôi đền Etemenanki và [[Cổng Ishtar]], cánh cổng có tám cái cửa kỳ vĩ. Ngày nay Cổng Ishtarđược tái tạo ở [[bảo tàng Pergamon]] ở Berlin. Dưới triều vua [[Nebuchadnezzar II]], Đế quốc Tân Babylon trở nên vô cùng hùng mạnh. Ông vài lần mang quân tiến đánh thành [[Jerusalem]], đày ải những người Do Thái về thành Babylon.<ref>Samuel Willard Crompton, ''Cyrus the Great'', trang 101</ref><ref>Samuel Willard Crompton, ''Cyrus the Great'', trang 62</ref>
 
* {{Chú thích web|url=https://www.livius.org/sources/content/uruk-king-list/|tựa đề=Uruk King List|tác giả=Lendering|tên=Jona|ngày=2005|website=Livius|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|ngày truy cập=10 December 2019|ref=CITEREFLendering2005}}
Nebuchadnezzar đã cho xây dựng [[vườn treo Babylon]], một trong [[Bảy kỳ quan thế giới cổ đại|7 kỳ quan của thế giới cổ đại]], dành tặng cho người vợ nhớ nhà [[Amyitis]]. Sự tồn tại của ngôi vườn đến nay vẫn còn gây tranh cãi. Mặc dù cuộc khai quật của nhà khảo cổ Robert Koldewey người Đức đã phát hiện ra nền móng của khu vườn, nhưng các sử gia vẫn bất đồng về vị trí, nhiều người cho rằng nó hãy còn nhập nhằng với khu vườn ở [[Nineveh]].
* {{Chú thích web|url=https://www.ancient.eu/article/990/the-marduk-prophecy/|tựa đề=The Marduk Prophecy|tác giả=Mark|tên=Joshua J.|ngày=2016|website=Ancient History Encyclopedia|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|ngày truy cập=9 December 2019|ref=CITEREFMark2016}}
* {{Chú thích web|url=https://www.ancient.eu/Nebuchadnezzar_II/|tựa đề=Nebuchadnezzar II|tác giả=Mark|tên=Joshua J.|ngày=2018|website=Ancient History Encyclopedia|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|ngày truy cập=17 December 2019|ref=CITEREFMark2018}}
* {{Chú thích web|url=https://www.ancient.eu/Cyrus_the_Great/|tựa đề=Cyrus the Great|tác giả=Nijssen|tên=Daan|ngày=2018|website=Ancient History Encyclopedia|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|ngày truy cập=18 December 2019|ref=CITEREFNijssen2018}}
* {{Chú thích web|url=https://www.ucl.ac.uk/sargon/essentials/kings/tiglatpileseriii/|tựa đề=Tiglath-pileser III, king of Assyria (744-727 BC)|tác giả=Radner|tên=Karen|ngày=2012|website=Assyrian empire builders|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|ngày truy cập=15 December 2019|ref=CITEREFRadner2012}}
 
== ThamLiên khảokết ngoài ==
{{Tham khảo|}}
{{Sơ khai lịch sử}}
 
* Những ''[https://oi.uchicago.edu/sites/oi.uchicago.edu/files/uploads/shared/docs/letters_from_mesopotamia.pdf lá thư]'' của A. Leo Oppenheim ''[https://oi.uchicago.edu/sites/oi.uchicago.edu/files/uploads/shared/docs/letters_from_mesopotamia.pdf từ Lưỡng Hà]'' (1967), bao gồm các bản dịch của một số bức thư Tân Babylon (trang 183 Phản 195).
{{Đế quốc}}{{Syria cổ đại và Lưỡng Hà}}{{Lưỡng Hà cổ đại}}
[[Thể loại:Cựu đế quốc gia ở Trungchâu ĐôngÁ]]
[[Thể loại:Lịch sử Kuwait]]
[[Thể loại:Syria cổ đại]]
[[Thể loại:Lịch sử cổ đại Iran]]
[[Thể loại:Babylonia]]