Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đế quốc Tân Babylon”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tạo với bản dịch của trang “Neo-Babylonian Empire
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 37:
Các chính sách tôn giáo được áp đặt bởi vị vua cuối cùng của Đế chế, Nabonidus, người ủng hộ vị thần mặt trăng [[Sin (thần thoại)|Sîn]] thay cho vị thần bảo trợ của Babylon Marduk, đã tạo ra một ''[[Casus belli|cái cớ]]'' cho [[Cyrus Đại đế]] của Achaemenes xâm chiếm Babylonia vào năm 539 TCN, dưới ngọn cờ phục thù cho Marduk. Babylon vẫn giữ được văn hóa đặc trưng trong nhiều thế kỷ, thể hiện qua các cái tên Babylon và [[tôn giáo Babylon]] vẫn được nhắc tới cho đến cuối [[Đế quốc Parthia|thời kỳ Parthia]] vào thế kỷ 1 TCN. Mặc dù Babylon nổi dậy nhiều lần trong thời kỳ cai trị của các đế chế sau này, nhưng vẫn không thể nào khôi phục nền độc lập.
 
== Thời lịchkỳ trước ==
[[Tập tin:Babylone_1.PNG|trái|nhỏ| Bản đồ của [[Đế chế Cổ Babylon|Đế chế Babylon cổ đại]] dưới thời [[Hammurabi]] (r.   {{Circa|}} 1792 Nền1750 TCN). ]]<br />
 
== Lịch sử ==
[[Tập tin:Etemenanki_Babylon_(7).png|trái|nhỏ| Được gọi là "Bia [[Tháp Babel]]", thể hiện [[Naboukhodonosor II|Nebuchadnezzar II]] ở phía trên bên phải và Đại [[ziggurat]] của [[Babylon]] ([[Etemenanki]]) ở bên trái. ]]
[[Tập tin:Cyrus_invasion_of_Babylonia.svg|nhỏ| Bản đồ hướng xâm lược Babylonia của [[Cyrus Đại đế]] năm 539 TCN. ]]
[[Tập tin:The_Babylonians_deriding_Darius.jpg|nhỏ| Minh họa cư dân [[Babylon]] chế giễu [[Darius I]] của [[Đế quốc Achaemenes|Achaemenes]] trong cuộc nổi dậy của Nebuchadnezzar III năm 522 TCN. Từ ''Lịch sử Darius Đại đế'' (1900) của Jacob Abbott. ]]
[[Tập tin:Basse_Mesopotamie_1mil.png|trái|nhỏ| Các thành phố lớn của Hạ Lưỡng Hà trong [[thế kỷ 1 TCN]]. ]]
 
==== Chiến tranh chống lại Assyria ====
=== Di sản ===
Vào năm 620 TCN, Nabopolassar đã giành quyền kiểm soát phần lớn Babylon và được dân chúng ủng hộ, ngoại trừ thành Nippur và một số khu vực phía bắc vẫn trung thành với vua Assyria.<ref name="Georges Roux - Ancient Iraq">Georges Roux, ''Ancient Iraq''</ref> Nabopolassar dành bốn năm tiếp theo chiến đấu với quân đội Assyria đóng quân tại Babylon. Tuy nhiên, Sin-shar-ishkun của Assyria bị phân tán bởi những cuộc nổi loạn liên tục ở [[Nineveh]] nên đã không thể dẹp tan được Nabopolassar.
[[Tập tin:US_Navy_030529-N-5362A-001_A_U.S._Marine_Corps_Humvee_vehicle_drives_down_a_road_at_the_foot_of_Saddam_Hussein's_former_Summer_palace_with_ruins_of_ancient_Babylon_in_the_background.jpg|nhỏ| Quang cảnh một phần về tàn tích của [[Babylon]] ở [[Iraq]] thời hiện đại. ]]
Trước các cuộc khai quật khảo cổ học hiện đại ở Lưỡng Hà, lịch sử chính trị, xã hội và hình thái của Babylon cổ đại phần lớn là một điều bí ẩn. Các nghệ sĩ phương Tây thường hình dung thành phố và đế quốc của nó như là sự kết hợp của các nền văn hóa cổ đại đã biết - điển hình là sự pha trộn của văn hóa [[Hy Lạp cổ đại|Hy Lạp]] và [[Ai Cập cổ đại|Ai Cập]] [[Hy Lạp cổ đại|cổ đại]] - với một số ảnh hưởng từ đế quốc Trung Đông đương thời, [[Đế quốc Ottoman|Đế chế Ottoman]]. Những minh họa thời đầu về thành phố khắc họa nó với hàng cột dài, đôi khi có tầng cao, hoàn toàn không giống với kiến trúc thực tế của các thành phố Lưỡng Hà cổ đại trong lịch sử, cùng với các bút tháp và [[nhân sư]] lấy cảm hứng từ Ai Cập, và những chóp nhọn và tháp rải rác ảnh hưởng từ Ottoman.{{Sfn|Liverani|2016|pp=21–22|p=}}
 
Vào năm 615 TCN, Nabopolassar liên minh với [[Cyaxares]], chư hầu của Assyria và là vua của các dân tộc Iran; [[Người Media|Media]], [[Iran|Ba Tư]], Sagartia và [[Người Parthia|Parthia]]. Cyaxares cũng lợi dụng tình trạng hỗn loạn để giải phóng các dân tộc Iran sau ba thế kỷ bị Assyria và Elam cai trị. Những dân tộc bị áp bức khác như người [[Người Scythia|Scythia]] từ phía bắc của [[Kavkaz]] và người [[Người Cimmeria|Cimmeria]] từ [[Biển Đen]], và các bộ lạc Aram trong khu vực cũng gia nhập liên minh.
Thời nay Babylon có lẽ được biết đến nhiều nhất qua những lần nó được nhắc đến trong Kinh Thánh theo cả nghĩa đen (liên quan đến các sự kiện lịch sử) và nghĩa bóng (tượng trưng cho những thứ khác). Đế chế Tân Babylon xuất hiện trong một số lời tiên tri và trong các mô tả về sự phá hủy Jerusalem và bị cầm tù người Do Thái tại Babylon sau đó. Do đó, theo truyền thống [[Người Do Thái|Do Thái]], Babylon tượng trưng cho bạo ngược và áp bức. Trong [[Kitô giáo]], Babylon tượng trưng cho sự trần tục và xấu xa. Những lời tiên tri đôi khi gắn các vị vua của Babylon với [[Lucifer]]. Nebuchadnezzar II, đôi khi được hợp nhất với Nabonidus, là người cai trị được nhắc đến nhiều nhất trong những câu chuyện này.{{Sfn|Seymour|2006|pp=91–101|p=}}
 
Vào năm 615 TCN, trong khi vua Assyria dồn sức dẹp loạn ở cả Babylonia và Assyria, Cyaxares đã phát động một cuộc tấn công bất ngờ vào trung tâm Assyria, cướp phá các thành phố [[Nimrud|Kalhu]] ([[Nimrud|Calah]], [[Nimrud]] trong [[Kinh thánh]]) và Arrapkha (Kirkuk hiện đại). Nabopolassar vẫn bị vây ở miền nam Lưỡng Hà nên không tham dự chiến dịch này.
[[Sách Khải Huyền]] trong Kinh Thánh Kitô giáo đề cập đến Babylon nhiều thế kỷ sau khi nó không còn là một trung tâm chính trị lớn. Thành phố được nhân cách hóa thành "Con điếm thành Babylon", cưỡi trên một con thú đỏ tươi với bảy đầu và mười sừng, và say sưa hút máu của những người công chính. Một số học giả về văn học khải huyền tin rằng cụm "Babylon" trong Tân Ước này là để ẩn dụ cho [[Đế quốc La Mã|Đế chế La Mã]].{{Sfn|Tenney|1985|p=383}}
 
Từ lúc đó, liên minh của người Babylon, Chaldea, Meia, Ba Tư, Scythia, Cimmeria và Sagartia đã đồng loạt nổi dậy chống lại Assyria. Các thành phố lớn của Assyria như Ashur, Arbela ([[Erbil|Irbil]] hiện đại), Guzana, Dur Sharrukin (Khorsabad hiện đại), [[Balawat, Muddebihal|Imgur-Enlil]], Nibarti-Ashur, Gasur, Kanesh, Kar Ashurnasipal và Tushhan đã rơi vào tay liên quân vào năm 614 TCN. Sin-shar-ishkun đã đảo ngược tình thế vào năm 613 TCN, thành công đẩy lùi quân nổi loạn. Tuy nhiên, liên quân quay lại tấn công đa phương diện vào năm tiếp theo, và sau năm năm chiến đấu ác liệt, [[Nineveh]] bị công phá vào cuối năm 612 TCN sau một cuộc bao vây kéo dài. Sin-shar-ishkun bị giết khi thủ thành.
 
Chiến loạn vẫn tiếp tục ở Nineveh. Một tướng lĩnh trong hoàng tộc Assyria là Ashur-uballit II lên ngôi (612-605 TCN). Theo Biên niên sử Babylon, ông được liên quân khuyên hàng và chấp nhận xưng thần, nhưng ông từ chối và tìm cách rút khỏi Nineveh để đến thành phố phía Bắc Assyria [[Harran]] ở Thượng Lưỡng Hà và thành lập kinh đô mới. Cuộc chiến vẫn tiếp diễn cho đến năm 607 TCN, Ashur-uballit II bị Media, Babylon, Scythia và đồng minh đánh bật khỏi Harran. Số phận của ông sau đó vẫn chưa rõ.
 
Pharaoh Necho II của [[Ai Cập cổ đại|Ai Cập]], triều đại chư hầu do Assyria lập nên năm 671 TCN, trợ giúp Assyria vì lo sợ Ai Cập sẽ bị các thế lực mới thôn tính nếu Assyria không còn nữa. Người Assyria có Ai Cập trợ giúp cho đến thất bại quyết định tại Carestoish ở tây bắc Assyria năm 605 TCN. Vị trí đế quốc được chuyển giao cho Babylon{{Sfn|Chisholm|1911|p=105}} lần đầu tiên kể từ thời Hammurabi hơn một ngàn năm trước.
 
==== Thời kỳ hoàng kim ====
[[Tập tin:Etemenanki_Babylon_(7).png|trái|nhỏ| Được gọi là "Bia [[Tháp Babel]]", thể hiện [[Naboukhodonosor II|Nebuchadnezzar II]] ở phía trên bên phải và Đại [[ziggurat]] của [[Babylon]] ([[Etemenanki]]) ở bên trái. ]][[Naboukhodonosor II|Nebuchadnezzar II]] lên kế vị (605-562 TCN) và trị vì trong 43 năm, đưa Babylon một lần nữa trở thành bá chủ của phần lớn thế giới văn minh, tiếp quản các phần của Đế quốc Assyria cũ, với phần phía đông và đông bắc là Media và phía cực bắc là [[Người Scythia|Scythia]].{{Sfn|Chisholm|1911|p=105}} Nebuchadnezzar II phải đối mặt với tàn dư Assyria và các mối đe dọa mới là người [[Người Scythia|Scythia]] và [[Người Scythia|người]] [[Người Cimmeria|Cimmeria]], vốn là các đồng minh cũ dưới thời Nabopolassar. Nebuchadnezzar II đem quân lên Anatolia và đánh tan các thế lực này, chấm dứt mối đe dọa ở phía Bắc.
 
Người Ai Cập cố gắng trụ lại Cận Đông, có thể là để khôi phục Assyria làm vùng đệm an toàn chống lại Babylon, Media và Ba Tư, hoặc để tạo ra một đế chế mới của riêng họ. Nebuchadnezzar II tấn công người Ai Cập và đẩy họ trở lại [[Bán đảo Sinai|Sinai]]. Tuy nhiên, ông không thể khuất phục được Ai Cập như Assyria đã làm, chủ yếu là do một loạt các cuộc nổi loạn từ [[Người Israel (cổ đại)|Israel]] của [[Vương quốc Judah|Judah]] và cổ vương quốc Ephraim, [[Phoenicia]] của [[Canaan|Caanan]] và Aram của Levant. Babylon đã nghiền nát những cuộc nổi loạn này, phế truất Jehoiakim của [[Vương quốc Judah|Judah]] và áp giải một phần lớn dân số về Babylonia. Các thành phố như [[Týros|Tyre]], Sidon và [[Damascus]] cũng bị thu phục. Người [[Người Ả Rập|Ả Rập]] và các dân tộc Nam Ả Rập khác cư ngụ trong các sa mạc ở phía nam biên giới Lưỡng Hà sau đó cũng bị khuất phục.
[[Tập_tin:Panorama_view_of_the_reconstructed_Southern_Palace_of_Nebuchadnezzar_II,_6th_century_BC,_Babylon,_Iraq.jpg|liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp_tin:Panorama_view_of_the_reconstructed_Southern_Palace_of_Nebuchadnezzar_II,_6th_century_BC,_Babylon,_Iraq.jpg|nhỏ|Toàn cảnh Cung điện phía Nam của Nebuchadnezzar II được phục dựng, thế kỷ thứ 6 TCN, Babylon, Iraq]]
Vào năm 567 TCN, Nebuchadnezzar II gây chiến với Pharaoh [[Amasis II|Amasis]] và xâm lược [[Ai Cập]] trong một thời gian ngắn. Sau khi đế chế được bảo đảm, bao gồm việc kết hôn với một công chúa Media, ông dành hết tâm huyết để phát triển Babylon và thực hiện nhiều dự án xây dựng ấn tượng. Ông được cho là người xây dựng [[Vườn treo Babylon]] huyền thoại.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.worldwideschool.org/library/books/hst/ancient/HistoryofPhoenicia/chap22.html|tựa đề=World Wide Sechool|website=History of Phoenicia&nbsp;– Part IV|url lưu trữ=https://archive.is/20120918143341/http://www.worldwideschool.org/library/books/hst/ancient/HistoryofPhoenicia/chap22.html|ngày lưu trữ=2012-09-18|ngày truy cập=2007-01-09}}</ref>
 
[[Amel-Marduk]] kế vị và chỉ ở ngôi hai năm. Có ít ghi chép đương thời về triều đại của ông, mặc dù Berosus sau này cho rằng ông bị người kế nhiệm Neriglissar phế truất và sát hại vào năm 560 TCN vì "những hành vi sai trái". Neriglissar (560-556 TCN) cũng có một triều đại ngắn ngủi. Ông là con rể của Nebuchadnezzar II, không rõ là người Chaldea hay người Babylon bản địa. Ông tấn công Aram và Phoenicia, thành công duy trì sự thống trị của Babylon ở những vùng này. Tuy nhiên, Neriglissar chết sớm. Con trai là Labashi-Marduk (556 TCN), vẫn còn là một cậu bé, kế vị và bị giết trong cùng năm bởi Nabodius.
 
==== Ba Tư xâm lược ====
[[Tập tin:Cyrus_invasion_of_Babylonia.svg|nhỏ| Bản đồ hướng xâm lược Babylonia của [[Cyrus Đại đế]] năm 539 TCN. ]]Vị vua Babylon cuối cùng, Nabonidus (''Nabu-na'id'', 556-539 TCN), là con trai của nữ tư tế người Assyria Adda-Guppi, xuất thân từ [[Harran]] (Kharranu), kinh đô cuối cùng của Assyria. Thông tin liên quan đến Nabonidus có nguồn gốc chủ yếu từ một phiến đất sét có ghi niên hiệu của Nabonidus, và dòng chữ khắc ghi công ông xây dựng lại ngôi đền của Thần mặt trăng [[Tội lỗi|Sin]] tại Harran; cũng như trong tuyên cáo của [[Cyrus Đại đế|Cyrus]] được ban hành ngay sau khi ông chiếm được Babylonia.{{Sfn|Chisholm|1911|p=105}}
 
Nhiều yếu tố phát sinh dẫn đến sự sụp đổ của Babylon. Dân chúng Babylonia trở nên bất mãn với Nabonidus do ông quy tập toàn bộ hoạt động thờ phụng đa thần về đền thờ chính Marduk ở Babylon, dẫn đến bỏ bê giới tăng lữ địa phương. Ông cũng không được lòng quân đội do sở thích nghiên cứu khảo cổ của mình. Nabonidus có vẻ đã để cho con trai Belshazzar (một vị tướng có khả năng nhưng kém về ngoại giao, không được lòng giới tinh hoa chính trị) nhiếp chính, còn mình thì mải khai quật ghi chép lưu trữ của các đền thờ và xác định ngày tháng xây dựng.{{Sfn|Chisholm|1911|p=105}} Ông cũng dành nhiều thời gian bên ngoài Babylon, xây dựng lại các ngôi đền ở thành phố Harran của Assyria, hoặc ở tại các vùng chư hầu Ả Rập trong các sa mạc ở phía nam Lưỡng Hà. Nguồn gốc Assyria của Nabonidus và Belshazzar cũng có thể khiến cho sự phẫn nộ gia tăng. Ngoài ra, các thế lực quân đội tại Lưỡng Hà thường tập trung ở các vùng Assyria cũ, nhưng không còn Assyria kiềm chế, khiến cho Babylonia ở vào thế không được phòng thủ và dễ bị xâm chiếm hơn so với phía bắc.
 
Vào năm thứ sáu triều Nabonidus (549 TCN), [[Cyrus Đại đế]], "vua của Anshan" người Achaemenid Ba Tư ở Elam, đã nổi dậy chống lại ách thống trị của [[Astyages]], "vua của Manda" hoặc Media, tại Ecbatana. Quân đội của Astyages ngả theo phe Cyrus. Đế chế Media sụp đổ và người Ba Tư thành bá chủ của các dân tộc Iran.{{Sfn|Chisholm|1911|pp=105–106}} Ba năm sau, Cyrus trở thành vua của Ba Tư và dập tắt cuộc nổi dậy của người Assyria. Trong khi đó, Nabonidus đã lập doanh trại ở sa mạc thuộc địa Ả Rập của mình, gần biên giới phía nam vương quốc, để lại con trai Belshazzar (''Belsharutsur'') chỉ huy quân đội.
 
Năm 539 TCN, Cyrus xâm chiếm Babylonia. Vào tháng 6, Opis bị chiếm; ngay sau đó Sippar đầu hàng. Nabonidus chạy về Babylon, và bị Gobryas bắt giữ. Vào ngày 16 lịch Tammuz, hai ngày sau khi Sippar đầu hàng, "binh sĩ của Cyrus vào Babylon mà không gặp phải sự kháng cự nào." Cho đến tận ngày 3 của ''Marchesvan'' (tháng Mười) Cyrus mới đến, trong thời gian đó Gobryas thay mặt cho ông và được phong làm tổng trấn của tỉnh Babylon. Vài ngày sau đó Belshazzar tử trận. Tang lễ được tổ chức kéo dài 6 ngày, con trai của Cyrus là [[Cambyses II|Cambyses]] đi cùng lễ rước thi hài nhập táng.{{Sfn|Chisholm|1911|p=106}} Một trong những đạo luật đầu tiên của Cyrus là cho phép những người lưu vong Do Thái trở về nhà. Qua đó Cyrus thể hiện mình chính thức sở hữu ngai vàng Babylon.{{Sfn|Chisholm|1911|p=106}} Cyrus tuyên bố là người thừa kế hợp pháp của các vị vua Babylon cổ đại và là kẻ báo thù cho thần Marduk, người đã rất phẫn nộ trước sự bất kính của Nabonidus khi đem các tượng thần địa phương khỏi đền thờ gốc của họ tới thủ đô Babylon.{{Sfn|Chisholm|1911|p=106}}
 
Tộc Chaldea đã mất quyền kiểm soát Babylonia trong nhiều thập kỷ trước khi kết thúc thời đại mang tên họ, và họ dường như đã hòa nhập với thường dân Babylonia từ trước đó (ví dụ, Nabopolassar, Nebuchadnezzar II và những người kế vị đều tự xưng là ''Shar Akkad'' chứ không phải là ''Shar Kaldu'' trên các dòng chữ khắc). Trong [[Đế quốc Achaemenes|Đế chế Achaemenid]] của Ba Tư, thuật ngữ ''Chaldea'' đã không còn dùng để chỉ một chủng tộc người, mà thay vào đó là đẳng cấp tu sĩ có học vấn về Babylon cổ điển, cụ thể là Thiên văn học và Chiêm tinh. Vào giữa thời [[Vương quốc Seleukos|Đế chế Seleucid]] (312-150 TCN), thuật ngữ này cũng đã không còn được sử dụng.
 
== Thời kỳ sau này ==
[[Tập tin:The_Babylonians_deriding_Darius.jpg|nhỏ| Minh họa cư dân [[Babylon]] chế giễu [[Darius I]] của [[Đế quốc Achaemenes|Achaemenes]] trong cuộc nổi dậy của Nebuchadnezzar III năm 522 TCN. Từ ''Lịch sử Darius Đại đế'' (1900) của Jacob Abbott. ]]Babylonia bị sáp nhập vào [[Đế quốc Achaemenes|Đế chế Achaemenes]] vào năm 539 TCN.
 
Một năm trước khi chết, vào năm 529 TCN, Cyrus phong con trai mình là [[Cambyses II]] làm vua Babylon, còn ông giữ danh hiệu đầy đủ hơn là "vua của các tỉnh (khác)" của đế chế. Chỉ cho đến khi [[Darius I]] lên ngôi và đặt [[Hỏa giáo]] làm quốc giáo, thì truyền thống coi ngai vàng Babylon là điều kiện bắt buộc để trị vì chính danh ở Tây Á mới ngừng được thừa nhận.{{Sfn|Chisholm|1911|p=106}}
 
Sau khi Darius giành được Ba Tư, Babylon đã nhanh chóng giành độc lập về tay người bản địa. Nidinta-Bel, lấy tên là Nebuchadnezzar III, trị vì từ tháng 10 năm 522 TCN cho đến tháng 8 năm 520 TCN, Daris chiếm lại thành phố. Assyria ở phía bắc cũng nổi loạn. Vài năm sau, có lẽ là 514 TCN, Babylon lại nổi dậy dưới thời vua [[Người Armenia|Armenia]] Nebuchadnezzar IV; lần này sau khi bị người Ba Tư đánh hạ, các bức tường thành đã bị phá hủy một phần. Tuy nhiên, ngôi đền lớn Esagila vẫn được tu sửa và là một trung tâm tôn giáo của người Babylon.{{Sfn|Chisholm|1911|p=106}}[[Tập tin:Basse_Mesopotamie_1mil.png|trái|nhỏ| Các thành phố lớn của Hạ Lưỡng Hà trong [[thế kỷ 1 TCN]]. ]][[Alexandros Đại đế|Alexander Đại đế]] chinh phục Babylon vào năm 333 TCN cho người Hy Lạp, và qua đời ở đây vào năm 323 TCN. Babylonia và Assyria sau đó trở thành một phần của [[Vương quốc Seleukos|Đế chế Seleucid]] của Hy Lạp. Lâu nay nhiều người tin rằng một phần dân số chuyển đến [[Seleucia]], thủ đô mới của nam Lưỡng Hà, và những tàn tích của Babylon cũ bị khai thác đá để xây dựng chính quyền mới,{{Sfn|Chisholm|1911|p=106}} nhưng ấn phẩm gần đây của ''Biên niên sử Babylon'' đã chỉ ra rằng cuộc sống thành thị tại đây vẫn như cũ cho đến thời [[Đế quốc Parthia|Đế chế Parthia]] (150-226 CN). Vua [[Mithridates I của Parthia|Mithridates]] của Parthia đã chinh phục và sáp nhập vùng này vào Đế quốc Parthia vào năm 150 TCN. Khu vực này trở thành một chiến trường giữa người Hy Lạp và Parthia.
 
Có một thời gian ngắn khu vực bị [[Đế quốc La Mã|La Mã]] chinh phạt (tỉnh Assyria và Lưỡng Hà thuộc La Mã; 116-118 CN) dưới thời [[Traianus|Trajan]], sau đó người Parthia giành lại quyền kiểm soát.
 
[[Satrap]] Babylon được sáp nhập vào vùng Asōristān (có nghĩa là ''xứ Assyria'' trong [[tiếng Ba Tư]]) thuộc [[Đế quốc Sasan|Đế quốc Sasanian]] vào năm 226 CN, và đến thời điểm này, Kitô giáo Đông Syria (khởi nguồn ở Assyria và Thượng Lưỡng Hà) đã trở thành tôn giáo chính trong cộng đồng người Assyria-Babylon bản địa. Nhóm người này chưa bao giờ dung nhập [[Hỏa giáo]] hay [[Tôn giáo Hy Lạp cổ đại|tôn giáo Hy Lạp]] và ngôn ngữ của những kẻ cai trị.
 
Ngoại trừ các thành bang [[Đế quốc Tân Assyria|Tân Assyria]] nhỏ độc lập từ thế kỷ 2 TCN đến thế kỉ 3 CN: Adiabene, Osroene, [[Assur]], Beth Garmai, Beth Nuhadra và [[Hatra]] ở phía bắc, Lưỡng Hà bị Ba Tư đô hộ cho đến [[Những cuộc xâm lược của người Hồi giáo|cuộc xâm lược Ba Tư của người Hồi giáo]] [[Người Ả Rập|Ả Rập]] trong thế kỷ 7 CN. Asōristān bị giải thể năm 637 CN; dân cư nói tiếng Đông Aram và phần lớn theo Kitô giáo ở miền Nam và Trung Lưỡng Hà (với ngoại lệ Mandea) dần dần bị Ả Rập hóa và Hồi giáo hóa; ngược lại, vùng Bắc Lưỡng Hà vẫn duy trì truyền thống Assyria cho đến tận ngày nay.
 
== Văn hóa xã hội ==
 
=== Tôn giáo ===
[[Tập tin:Baylonianmaps.JPG|nhỏ| Phiến đất sét chứa "bản đồ thế giới" thế kỷ thứ 6 TCN của Babylon, với trung tâm là [[Babylon]] ở trung tâm. [[Bảo tàng Anh]]. ]]
 
 
Babylon, giống như phần còn lại của Lưỡng Hà cổ đại, theo [[tôn giáo Lưỡng Hà cổ đại]], trong đó các vị thần có hệ thống cấp bậc và triều đại, các vị thần địa phương đóng vai trò là vị thần bảo trợ cho mỗi thành phố cụ thể. Marduk là vị thần bảo trợ của thành Babylon kể từ thời vua Hammurabi (thế kỷ 18 TCN) của Triều đại Babylon thứ nhất. Trong [[thần thoại Lưỡng Hà]], Marduk là một vị thần sáng tạo. Sử thi sáng thế của Babylon [[Enûma Eliš|Enuma Elish]] kể về việc thế giới được tạo thành như thế nào và quá trình Marduk trở thành vị thần tối cao. Mặc dù tín ngưỡng Marduk của người Babylon không phủ nhận sự tồn tại của các vị thần khác trong hệ thống thần Lưỡng Hà, nhưng nhiều khi nó cũng được xem như tôn giáo [[Thuyết độc thần|độc thần]].{{Sfn|Mark|2016|p=}} Lịch sử thờ cúng Marduk gắn bó mật thiết với lịch sử của Babylon và khi quyền lực của Babylon tăng lên, vị trí của Marduk cũng được nâng cao so với các vị thần Lưỡng Hà khác. Vào cuối thiên niên kỷ thứ hai TCN, đôi khi Marduk chỉ được nhắc đến như là ''Bêl'', có nghĩa là "chúa tể".{{Sfn|Leick|2009|p=348}} Bức tượng Marduk được xem là hiện thân của Marduk nằm trong ngôi đền chính Esagila của Babylon,{{Sfn|Mark|2016|p=}} được sử dụng trong các nghi lễ quan trọng của thành phố.{{Sfn|Dalley|1997|p=163}}
Hàng 68 ⟶ 102:
 
Phần lớn các nguồn còn sót lại liên quan đến hệ thống pháp lý Tân Babylon là các [[phiến đất sét]] ghi chép lại thư từ và các vụ kiện tụng. Những phiến đất sét này ghi lại các tranh chấp pháp lý và tội phạm khác nhau, chẳng hạn như tham ô, tranh chấp tài sản, [[trộm cắp]], các vấn đề gia đình, [[Nợ|nợ nần]], [[thừa kế]] và thường cung cấp cái nhìn sâu sắc về cuộc sống hàng ngày ở Đế quốc Tân Babylon. Hình phạt cho các loại tội phạm và tranh chấp này phần lớn là phạt tiền: bên có tội phải trả một số lượng bạc cụ thể như một khoản bồi thường. Những tội như [[Thông gian|ngoại tình]] hay phỉ báng hoàng gia là [[Tử hình|tội tử hình]], nhưng có rất ít bằng chứng còn tồn tại cho thấy án tử hình thực sự được thực hiện.'''''{{Sfn|Oelsner|Wells|Wunsch|2003|p=|pp=961–967}}'''''
 
=== Nghệ thuật ===
[[Tập tin:Striding_lions_-_Processional_Way_of_Babylon_-_Pergamonmuseum_-_Berlin_-_Germany_2017.jpg|trái|nhỏ| Hình ảnh sư tử trên Con đường diễu hành ở [[Babylon]]. [[Bảo tàng Pergamon]] ở [[Berlin]]. ]]
Thời kỳ Tân Babylon tiếp tục xu hướng nghệ thuật của các thời kỳ trước, cụ thể là thời kỳ Tân Assyria. Các con dấu hình trụ thời này ít chi tiết hơn trước và cho thấy ảnh hưởng nhất định của Assyria trong các chủ đề được mô tả. Một trong những hình ảnh phổ biến nhất được miêu tả trên các con dấu là người anh hùng, đôi khi có cánh, chuẩn bị tấn công quái thú bằng kiếm cong. Những cảnh phổ biến khác bao gồm cảnh thanh tẩy cây thiêng hoặc sinh vật thần thoại. Các con dấu hình trụ ngày càng ít được sử dụng trong suốt thế kỷ Tân Babylon, cuối cùng bị thay thế hoàn toàn bởi các con dấu đóng dấu.'''{{Sfn|André-Salvini|2008|pp=222–223}}'''
[[Tập tin:Babylonian_-_Female_Mesopotamian_Figure_-_Walters_481807.jpg|nhỏ| [[Terracotta|Bức]] tượng [[Terracotta|đất nung]] Tân Babylon mô tả một người phụ nữ khỏa thân. Bảo tàng Nghệ thuật Walters ở [[Baltimore]]. ]]
Tượng và phù điêu [[Terracotta|đất nung]] được làm bằng khuôn rất phổ biến ở Đế chế Tân Babylon. Những bức tượng được tìm thấy thường thể hiện những con quỷ bảo hộ (như Pazuzu) hoặc các vị thần, nhưng cũng có cả kỵ sĩ, phụ nữ khỏa thân, thuyền, người vác bình và nhiều loại đồ đạc. Những bức tượng đất nung có thể là những linh vật được giữ trong nhà của mọi người để làm phép giữ nhà hoặc trang trí, nhưng cũng có thể là những đồ vật được dâng lên các vị thần trong đền thờ.'''{{Sfn|André-Salvini|2008|p=173}}{{Sfn|André-Salvini|2008|p=|pp=218–220}}'''
[[Tập tin:Baylonianmaps.JPG|nhỏ| Phiến đất sét chứa "bản đồ thế giới" thế kỷ thứ 6 TCN của Babylon, với [[Babylon]] ở trung tâm. [[Bảo tàng Anh]]. ]]
Kỹ thuật [[Men gốm|tráng men màu]] đã được cải tiến và hoàn thiện bởi các nghệ nhân Tân Babylon. Trong các bức phù điêu, chẳng hạn như ở trên [[Cổng Ishtar]] ở Babylon và dọc theo Đường diễu hành của thành phố (nơi diễn ra các cuộc diễu hành trong các lễ hội tôn giáo), những viên gạch được đúc thành nhiều hình dạng khác nhau và tráng men màu để trang trí. Hầu hết các họa tiết trang trí này bao gồm sư tử và hoa (biểu tượng của nữ thần [[Inanna|Ishtar]]), mušḫuššu (một sinh vật thần thoại gắn với thần Marduk) và bò (gắn với thần Adad).'''{{Sfn|André-Salvini|2008|p=|pp=158–160}}{{Sfn|André-Salvini|2008|p=|pp=200–206}}'''
 
=== Sự hồi sinh của truyền thống cổ ===
Sau khi Babylonia giành lại độc lập, các nhà cai trị Tân Babylon có ý thức sâu sắc về bề dày lịch sử của đế quốc và theo đuổi chính sách đề cao truyền thống, làm sống lại phần lớn văn hóa [[Văn minh cổ Babylon|Sumer-Akkad]] cổ đại. Mặc dù [[Tiếng Aram]] đã trở thành ngôn ngữ phổ thông, tiếng Akkad vẫn được dùng làm ngôn ngữ hành chính và văn hóa.'''''{{Sfn|George|2007|p=60}}'''''
 
Các tác phẩm nghệ thuật cổ đại từ thời hoàng kim của đế quốc Babylon cổ được sùng bái hết mức và bảo tồn cẩn thận. Ví dụ, khi một bức tượng của [[Sargon của Akkad|Sargon Đại đế]] được tìm thấy trong quá trình xây dựng, một ngôi đền đã được dựng lên để thờ cúng bức tượng. Có một câu chuyện về việc [[Naboukhodonosor II|Nebuchadnezzar II]] trong khi dựng lại Đền Sippar, đã phải khai quật nhiều lần cho đến khi tìm thấy nền móng cũ từ thời Naram-Sin của Akkad để xây dựng lại ngôi đền cho đúng cách. Người Tân Babylon cũng hồi sinh tập tục Akkad cổ đại là bổ nhiệm một thiếu nữ hoàng tộc làm nữ tư tế của thần mặt trăng [[Sin (thần thoại)|Sîn]].'''{{Sfn|Jonker|1995|p=|pp=167–168}}{{Sfn|Sack|2004|p=|pp=78–79}}'''
 
=== Nô lệ ===
Hàng 120 ⟶ 141:
Quân đội của Đế quốc Tân Babylon huy động từ tất cả đơn vị hành chính - các thành phố của Babylonia, các tỉnh ở Syria và Assyria, các liên minh bộ lạc thần phục Babylon và các thành quốc chư hầu ở Levant.'''''{{Sfn|MacGinnis|2010|p=156}}''''' Các nguồn chi tiết nhất còn lại từ thời Tân Babylon có đề cập đến quân đội là từ các ngôi đền, nơi cung cấp một phần dân cư phụ thuộc đền thờ (được gọi là ''širāku'') để nhập ngũ trong thời chiến. Những người này chủ yếu là nông dân (''ikkaru'') nhưng một số người cũng là mục đồng, thợ làm vườn và thợ thủ công. Phần lớn quân sĩ lấy từ các đền thờ phục vụ trong quân đội ở vị trí cung thủ, được trang bị bởi đền thờ.'''''{{Sfn|MacGinnis|2010|p=157}}''''' Kỵ binh và chiến xa cũng do đền thờ cung cấp, nhưng ít được nhắc đến trong các bản khắc.'''''{{Sfn|MacGinnis|2010|p=158}}'''''
 
Công dân của các thành phố ở Babylonia có nghĩa vụ tham gia quân ngũ bắt buộc, thường là phục vụ ở vị trí cung thủ. Lực lượng dân quân này, giống lực lượng cung thủ từ đền thờ, được phân chia và tổ chức theo nghề nghiệp. Công dân tđi lính được trả lương bằng bạc, có thể ở mức 1 mina mỗi năm.'''''{{Sfn|MacGinnis|2010|p=159}}''''' Quân đội Tân Babylon cũng có thể đã bắt người từ các bộ lạc sung quân và thuê cả lính đánh thuê chuyên nghiệp (lính đánh thuê Hy Lạp trong quân đội của Nebuchadnezzar II được nhắc đến trong một bài thơ). Binh sĩ tham gia các chiến dịch (có thể kéo dài từ ba tháng đến cả năm) được cấp theo khẩu phần (bao gồm lúa mạch và cừu), trả lương bằng bạc, muối, dầu và bình nước, và cũng được trang bị chăn, lều, bao tải, giày, áo chẽn và lừa hoặc ngựa.'''''{{Sfn|MacGinnis|2010|p=160}}'''''
 
<br />
== Kiến trúc ==
=== Nghệ thuật =và kiến trúc ==
 
=== KiếnNghệ trúc đền đàithuật ===
[[Tập tin:Striding_lions_-_Processional_Way_of_Babylon_-_Pergamonmuseum_-_Berlin_-_Germany_2017.jpg|trái|nhỏ| Hình ảnh sư tử trên Con đường diễu hành ở [[Babylon]]. [[Bảo tàng Pergamon]] ở [[Berlin]]. ]]
Thời kỳ Tân Babylon tiếp tục xu hướng nghệ thuật của các thời kỳ trước, cụ thể là thời kỳ Tân Assyria. Các con dấu hình trụ thời này ít chi tiết hơn trước và cho thấy ảnh hưởng nhất định của Assyria trong các chủ đề được mô tả. Một trong những hình ảnh phổ biến nhất được miêu tả trên các con dấu là người anh hùng, đôi khi có cánh, chuẩn bị tấn công quái thú bằng kiếm cong. Những cảnh phổ biến khác bao gồm cảnh thanh tẩy cây thiêng hoặc sinh vật thần thoại. Các con dấu hình trụ ngày càng ít được sử dụng trong suốt thế kỷ Tân Babylon, cuối cùng bị thay thế hoàn toàn bởi các con dấu đóng dấu.'''{{Sfn|André-Salvini|2008|pp=222–223}}'''
[[Tập tin:Babylonian_-_Female_Mesopotamian_Figure_-_Walters_481807.jpg|nhỏ| [[Terracotta|Bức]] tượng [[Terracotta|đất nung]] Tân Babylon mô tả một người phụ nữ khỏa thân. Bảo tàng Nghệ thuật Walters ở [[Baltimore]]. ]]
Tượng và phù điêu [[Terracotta|đất nung]] được làm bằng khuôn rất phổ biến ở Đế chế Tân Babylon. Những bức tượng được tìm thấy thường thể hiện những con quỷ bảo hộ (như Pazuzu) hoặc các vị thần, nhưng cũng có cả kỵ sĩ, phụ nữ khỏa thân, thuyền, người vác bình và nhiều loại đồ đạc. Những bức tượng đất nung có thể là những linh vật được giữ trong nhà của mọi người để làm phép giữ nhà hoặc trang trí, nhưng cũng có thể là những đồ vật được dâng lên các vị thần trong đền thờ.'''{{Sfn|André-Salvini|2008|p=173}}{{Sfn|André-Salvini|2008|p=|pp=218–220}}'''
 
Kỹ thuật [[Men gốm|tráng men màu]] đã được cải tiến và hoàn thiện bởi các nghệ nhân Tân Babylon. Trong các bức phù điêu, chẳng hạn như ở trên [[Cổng Ishtar]] ở Babylon và dọc theo Đường diễu hành của thành phố (nơi diễn ra các cuộc diễu hành trong các lễ hội tôn giáo), những viên gạch được đúc thành nhiều hình dạng khác nhau và tráng men màu để trang trí. Hầu hết các họa tiết trang trí này bao gồm sư tử và hoa (biểu tượng của nữ thần [[Inanna|Ishtar]]), mušḫuššu (một sinh vật thần thoại gắn với thần Marduk) và bò (gắn với thần Adad).'''{{Sfn|André-Salvini|2008|p=|pp=158–160}}{{Sfn|André-Salvini|2008|p=|pp=200–206}}'''
 
=== Sự hồi sinh của truyền thống cổ ===
Sau khi Babylonia giành lại độc lập, các nhà cai trị Tân Babylon có ý thức sâu sắc về bề dày lịch sử của đế quốc và theo đuổi chính sách đề cao truyền thống, làm sống lại phần lớn văn hóa [[Văn minh cổ Babylon|Sumer-Akkad]] cổ đại. Mặc dù [[Tiếng Aram]] đã trở thành ngôn ngữ phổ thông, tiếng Akkad vẫn được dùng làm ngôn ngữ hành chính và văn hóa.'''''{{Sfn|George|2007|p=60}}'''''
 
Các tác phẩm nghệ thuật cổ đại từ thời hoàng kim của đế quốc Babylon cổ được sùng bái hết mức và bảo tồn cẩn thận. Ví dụ, khi một bức tượng của [[Sargon của Akkad|Sargon Đại đế]] được tìm thấy trong quá trình xây dựng, một ngôi đền đã được dựng lên để thờ cúng bức tượng. Có một câu chuyện về việc [[Naboukhodonosor II|Nebuchadnezzar II]] trong khi dựng lại Đền Sippar, đã phải khai quật nhiều lần cho đến khi tìm thấy nền móng cũ từ thời Naram-Sin của Akkad để xây dựng lại ngôi đền cho đúng cách. Người Tân Babylon cũng hồi sinh tập tục Akkad cổ đại là bổ nhiệm một thiếu nữ hoàng tộc làm nữ tư tế của thần mặt trăng [[Sin (thần thoại)|Sîn]].'''{{Sfn|Jonker|1995|p=|pp=167–168}}{{Sfn|Sack|2004|p=|pp=78–79}}'''
 
=== Kiến trúc ===
 
==== Kiến trúc đền đài ====
[[Tập tin:Pergamonmuseum_Ishtartor_05.jpg|nhỏ| [[Cổng Ishtar]], một trong tám cổng nội thành của [[Babylon]], được xây dựng bởi vua [[Naboukhodonosor II|Nebuchadnezzar II]] {{Circa|}} 575 TCN. Cổng được phục dựng và trưng bày tại [[Bảo tàng Pergamon]] ở [[Berlin]]. ]]
Kiến trúc đền đài bao gồm các công trình như đền thờ, cung điện, [[ziggurat]], tường thành, phố diễu hành, kênh mương và các công trình phòng thủ.'''{{Sfn|Baker|2012|p=923}}''' Vai trò truyền thống của nhà vua Babylon là người xây dựng và phục chế, và các dự án xây dựng quy mô lớn như vậy đóng vai trò khẳng định tính chính danh cho các vị vua.'''{{Sfn|Porter|1993|p=66}}''' Do công việc khai quật ban đầu thường hướng đến các đền đài đồ sộ ở trung tâm các thành phố lớn của Babylonia, các kiến thức khảo cổ về Đế quốc Tân Babylon thường xoay quanh những đối tượng này mà bỏ qua kết cấu của thành phố (như khu dân cư) và các định cư nhỏ hơn.'''{{Sfn|Baker|2012|p=915}}'''
Hàng 138 ⟶ 175:
Nebuchadnezzar II cũng đã xây dựng hai dải tường phòng thủ xuyên quốc gia. Hiện chỉ mới xác định được chính xác một dải tường tên ''Habl al-Shar'' trải dài từ Euphrates đến Tigris tại đoạn hai con sông gần nhau nhất, nằm ở phía bắc thành phố Sippar. Dải tường kia chưa được tìm thấy, nằm ở phía đông gần thành phố Kish.'''{{Sfn|Baker|2012|p=925}}''' Nebuchadnezzar tập trung các dự án xây dựng phòng thủ của mình ở phía bắc Babylonia vì lo ngại khu vực này dễ bị tấn công nhất, và cũng xây dựng lại tường thành của các thành phố phía bắc như Kish, Borsippa và Babylon, còn của Ur và Uruk thì để như cũ.'''{{Sfn|Baker|2012|p=926}}'''
 
==== Kiến trúc dân dụng ====
Những ngôi nhà dân điển hình thời Tân Babylon có kết cấu cụm phòng ở bao quanh một khoảng sân trung tâm không có mái che. Một số ngôi nhà lớn hơn có hai hoặc ba sân (chỉ trong những ngôi nhà đặc biệt lớn). Hầu hết các ngôi nhà theo hướng đông nam đến tây bắc, với khu vực sinh hoạt chính (phòng lớn nhất) nằm ở phía đông nam. Tường rào bên ngoài nhà không được trang trí, trống trơn và không có cửa sổ. Lối vào chính thường nằm ở cuối nhà, cách xa khu vực sinh hoạt chính. Nhà của những người có địa vị cao hơn thường đứng biệt lập, trong khi những ngôi nhà có địa vị thấp hơn có thể có chung tường rào với nhà hàng xóm.'''{{Sfn|Baker|2012|p=926}}'''
 
Những ngôi nhà thời Tân Babylon được xây dựng chủ yếu bằng gạch bùn phơi khô. Chỉ có một số bộ phận, chẳng hạn gạch lát trong các phòng có nước và trong sân, mới sử dụng gạch nung, như loại dùng xây tường thành của Nebuchadnezzar. Mái nhà được làm từ gỗ phủ phên sậy, trên cùng phủ rơm khô.'''{{Sfn|Baker|2012|p=926}}'''
 
=== Di sản ===
[[Tập tin:US_Navy_030529-N-5362A-001_A_U.S._Marine_Corps_Humvee_vehicle_drives_down_a_road_at_the_foot_of_Saddam_Hussein's_former_Summer_palace_with_ruins_of_ancient_Babylon_in_the_background.jpg|nhỏ| Quang cảnh một phần về tàn tích của [[Babylon]] ở [[Iraq]] thời hiện đại. ]]
Trước các cuộc khai quật khảo cổ học hiện đại ở Lưỡng Hà, lịch sử chính trị, xã hội và hình thái của Babylon cổ đại phần lớn là một điều bí ẩn. Các nghệ sĩ phương Tây thường hình dung thành phố và đế quốc của nó như là sự kết hợp của các nền văn hóa cổ đại đã biết - điển hình là sự pha trộn của văn hóa [[Hy Lạp cổ đại|Hy Lạp]] và [[Ai Cập cổ đại|Ai Cập]] [[Hy Lạp cổ đại|cổ đại]] - với một số ảnh hưởng từ đế quốc Trung Đông đương thời, [[Đế quốc Ottoman|Đế chế Ottoman]]. Những minh họa thời đầu về thành phố khắc họa nó với hàng cột dài, đôi khi có tầng cao, hoàn toàn không giống với kiến trúc thực tế của các thành phố Lưỡng Hà cổ đại trong lịch sử, cùng với các bút tháp và [[nhân sư]] lấy cảm hứng từ Ai Cập, và những chóp nhọn và tháp rải rác ảnh hưởng từ Ottoman.{{Sfn|Liverani|2016|pp=21–22|p=}}
 
Thời nay Babylon có lẽ được biết đến nhiều nhất qua những lần nó được nhắc đến trong Kinh Thánh theo cả nghĩa đen (liên quan đến các sự kiện lịch sử) và nghĩa bóng (tượng trưng cho những thứ khác). Đế chế Tân Babylon xuất hiện trong một số lời tiên tri và trong các mô tả về sự phá hủy Jerusalem và bị cầm tù người Do Thái tại Babylon sau đó. Do đó, theo truyền thống [[Người Do Thái|Do Thái]], Babylon tượng trưng cho bạo ngược và áp bức. Trong [[Kitô giáo]], Babylon tượng trưng cho sự trần tục và xấu xa. Những lời tiên tri đôi khi gắn các vị vua của Babylon với [[Lucifer]]. Nebuchadnezzar II, đôi khi được hợp nhất với Nabonidus, là người cai trị được nhắc đến nhiều nhất trong những câu chuyện này.{{Sfn|Seymour|2006|pp=91–101|p=}}
 
[[Sách Khải Huyền]] trong Kinh Thánh Kitô giáo đề cập đến Babylon nhiều thế kỷ sau khi nó không còn là một trung tâm chính trị lớn. Thành phố được nhân cách hóa thành "Con điếm thành Babylon", cưỡi trên một con thú đỏ tươi với bảy đầu và mười sừng, và say sưa hút máu của những người công chính. Một số học giả về văn học khải huyền tin rằng cụm "Babylon" trong Tân Ước này là để ẩn dụ cho [[Đế quốc La Mã|Đế chế La Mã]].{{Sfn|Tenney|1985|p=383}}
 
== Xem thêm ==