Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đế quốc Tân Babylon”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 37:
Các chính sách tôn giáo được áp đặt bởi vị vua cuối cùng của Đế chế, Nabonidus, người ủng hộ vị thần mặt trăng [[Sin (thần thoại)|Sîn]] thay cho vị thần bảo trợ của Babylon Marduk, đã tạo ra một ''[[Casus belli|cái cớ]]'' cho [[Cyrus Đại đế]] của Achaemenes xâm chiếm Babylonia vào năm 539 TCN, dưới ngọn cờ phục thù cho Marduk. Babylon vẫn giữ được văn hóa đặc trưng trong nhiều thế kỷ, thể hiện qua các cái tên Babylon và [[tôn giáo Babylon]] vẫn được nhắc tới cho đến cuối [[Đế quốc Parthia|thời kỳ Parthia]] vào thế kỷ 1 TCN. Mặc dù Babylon nổi dậy nhiều lần trong thời kỳ cai trị của các đế chế sau này, nhưng vẫn không thể nào khôi phục nền độc lập.
 
== ThờiBối kỳ trướccảnh ==
[[Tập tin:Babylone_1.PNG|trái|nhỏ| Bản đồ của [[Đế chế Cổ Babylon|Đế chế Babylon cổ đại]] dưới thời [[Hammurabi]] (r.   {{Circa|}} 1792 Nền1750 TCN). ]][[Văn minh cổ Babylon|Babylonia]] được thành lập một thủ lĩnh [[Amorite]] là Sumu-abum {{Circa|}} 1894 TCN. Trong hơn một thế kỷ sau khi thành lập, nó là một quốc gia tiểu nhược, bị lu mờ bởi các quốc gia mạnh hơn như [[ Trong|Isin]], [[Larsa]], [[Assyria]] và [[Elam]]. Tuy nhiên, [[Hammurabi]] ({{Circa|}}1792-1750 TCN) đã biến Babylon thành một cường quốc và chinh phục toàn bộ [[Lưỡng Hà]], thành lập [[Đế chế Cổ Babylon]]. Sau cái chết của Hammurabi, Đế quốc Babylon suy tàn, và Babylon một lần nữa trở lại là một quốc gia nhỏ.'''''{{Sfn|Van De Mieroop|2005|pp=3–16}}''''' Babylonia rơi vào vua [[Người Hitti|Hittite]] Mursili I {{Circa|}}1595 TCN, sau đó bị [[người Kassite]] cai trị trong gần năm thế kỷ trước người Babylon nổi dậy giành độc lập.'''''{{Sfn|Bryce|2005|p=99|pp=}}'''''
[[Tập tin:Babylone_1.PNG|trái|nhỏ| Bản đồ của [[Đế chế Cổ Babylon|Đế chế Babylon cổ đại]] dưới thời [[Hammurabi]] (r.   {{Circa|}} 1792 Nền1750 TCN). ]]<br />
 
Dân số Babylonia trong thời kỳ hậu Kassite hoặc Trung Babylon này bao gồm hai nhóm chính; người Babylon bản địa (bao gồm hậu duệ của [[Sumer|người Sumer]] và [[Đế quốc Akkad|Akkad]], người Amorite và Kassite bị đồng hóa) và những người di cư mới (như [[Người Aram|Aram]] và [[Chaldea]]). Đến thế kỷ thứ 8, các nhóm dân tộc bản địa mất dần bản sắc và đã dung hòa thành một nền văn hóa "Babylon" thống nhất.'''''{{Sfn|Brinkman|1984|p=11}}''''' Đồng thời, người Chaldea, mặc dù vẫn giữ hình thái bộ tộc và lối sống của họ, ngày càng trở nên "Babylon hóa". Những người Chaldea được Babylon hóa này dần nằm vai trò quan trọng trong chính trị Babylon và vào năm 730 TCN, tất cả các bộ lạc Chaldea lớn đều có ít nhất một vị vua Babylon.'''''{{Sfn|Brinkman|1984|p=15}}'''''
 
Trong thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 8 TCN, vương quốc Babylon độc lập suy yếu trầm trọng và cuối cùng bị người láng giềng hùng mạnh phía bắc của Babylonia, [[Đế quốc Tân Assyria|Đế quốc Tân Assyrian]] (cũng nói [[tiếng Akkad]]), can thiệp quân sự năm 745 TCN'''''{{Sfn|Brinkman|1984|p=16}}''''' và sáp nhập Babylonia vào đế chế năm 729 TCN.'''{{Sfn|Radner|2012|p=}}''' Cuộc chinh phạt của người Assyria đã bắt đầu một cuộc đấu tranh kéo dài một thế kỷ để giành độc lập của người Babylon. Tuy nhiên, ách đô hộ của người Assyria ở Babylonia không ổn định hoặc hoàn toàn liên tục và trong thế kỷ đô hộ của Assyria, có nhiều cuộc nổi dậy của người Babylon nhưng không thành công.'''{{Sfn|Baker|2012|p=914}}'''
 
== Lịch sử ==
 
==== ChiếnNổi tranhdậy chống lại Assyria ====
Vào năm 620 TCN, thủ lĩnh người Chaldea là Nabopolassar đã giành quyền kiểm soát phần lớn Babylon và được dân chúng ủng hộ, ngoại trừ thành Nippur và một số khu vực phía bắc vẫn trung thành với vua Assyria.<ref name="Georges Roux - Ancient Iraq">Georges Roux, ''Ancient Iraq''</ref> Nabopolassar dành bốn năm tiếp theo chiến đấu với quân đội Assyria đóng quân tại Babylon. Tuy nhiên, vua Sin-shar-ishkun của Assyria bị phân tán bởi những cuộc nổi loạn liên tục ở [[Nineveh]] nên đã không thể dẹp tan được Nabopolassar.
 
Vào năm 615 TCN, Nabopolassar liên minh với [[Cyaxares]], chư hầu của Assyria và là vua của các dân tộc Iran; [[Người Media|Media]], [[Iran|Ba Tư]], Sagartia và [[Người Parthia|Parthia]]. Cyaxares cũng lợi dụng tình trạng hỗn loạn để giải phóng các dân tộc Iran sau ba thế kỷ bị Assyria và Elam cai trị. Những dân tộc bị áp bức khác như người [[Người Scythia|Scythia]] từ phía bắc của [[Kavkaz]] và người [[Người Cimmeria|Cimmeria]] từ [[Biển Đen]], và các bộ lạc Aram trong khu vực cũng gia nhập liên minh.
Hàng 49 ⟶ 53:
Vào năm 615 TCN, trong khi vua Assyria dồn sức dẹp loạn ở cả Babylonia và Assyria, Cyaxares đã phát động một cuộc tấn công bất ngờ vào trung tâm Assyria, cướp phá các thành phố [[Nimrud|Kalhu]] ([[Nimrud|Calah]], [[Nimrud]] trong [[Kinh thánh]]) và Arrapkha (Kirkuk hiện đại). Nabopolassar vẫn bị vây ở miền nam Lưỡng Hà nên không tham dự chiến dịch này.
 
Từ lúc đó, liên minh của người Babylon, Chaldea, Meia, Ba Tư, Scythia, Cimmeria và Sagartia đã đồng loạt nổi dậy chống lại Assyria. CácNhiều thành phố lớn của Assyria như Ashur, Arbela ([[Erbil|Irbil]] hiện đại), Guzana, Dur Sharrukin (Khorsabad hiện đại), [[Balawat, Muddebihal|Imgur-Enlil]], Nibarti-Ashur, Gasur, Kanesh, Kar Ashurnasipal và Tushhan đã rơi vào tay liên quân vào năm 614 TCN. Sin-shar-ishkun đã đảo ngược tình thế vào năm 613 TCN, thành công đẩy lùi quân nổi loạn. Tuy nhiên, liên quân quay lại tấn công đa phương diện vào năm tiếp theo, và sau năm năm chiến đấu ác liệt, [[Nineveh]] bị công phá vào cuối năm 612 TCN sau một cuộc bao vây kéo dài. Sin-shar-ishkun bị giết khi thủ thành.
 
Chiến loạn vẫn tiếp tục ở Nineveh. Một tướng lĩnh trong hoàng tộc Assyria là Ashur-uballit II lên ngôi (612-605 TCN). Theo Biên niên sử Babylon, ông được liên quân khuyên hàng và chấp nhận xưng thần, nhưng ông từ chối và tìm cách rút khỏi Nineveh để đến thành phố phía Bắc Assyria [[Harran]] ở Thượng Lưỡng Hà và thành lập kinh đô mới. Cuộc chiến vẫn tiếp diễn cho đến năm 607 TCN, Ashur-uballit II bị Media, Babylon, Scythia và đồng minh đánh bật khỏi Harran. Số phận của ông sau đó vẫn chưa rõ.
Hàng 55 ⟶ 59:
Pharaoh Necho II của [[Ai Cập cổ đại|Ai Cập]], triều đại chư hầu do Assyria lập nên năm 671 TCN, trợ giúp Assyria vì lo sợ Ai Cập sẽ bị các thế lực mới thôn tính nếu Assyria không còn nữa. Người Assyria có Ai Cập trợ giúp cho đến thất bại quyết định tại Carestoish ở tây bắc Assyria năm 605 TCN. Vị trí đế quốc được chuyển giao cho Babylon{{Sfn|Chisholm|1911|p=105}} lần đầu tiên kể từ thời Hammurabi hơn một ngàn năm trước.
 
==== Thời kỳ hoàngNebuchadnezzar kimII ====
[[Tập tin:Etemenanki_Babylon_(7).png|trái|nhỏ| Được gọi là "Bia [[Tháp Babel]]", thể hiện [[Naboukhodonosor II|Nebuchadnezzar II]] ở phía trên bên phải và Đại [[ziggurat]] của [[Babylon]] ([[Etemenanki]]) ở bên trái. |318x318px]][[Naboukhodonosor II|Nebuchadnezzar II]] lên kế vị (605-562 TCN) và trị vì trong 43 năm, đưa Babylon một lần nữa trở thành bá chủ của phần lớn thế giới văn minh, tiếp quản các phần của Đế quốc Assyria cũ, với phần phía đông và đông bắc là Media và phía cực bắc là [[Người Scythia|Scythia]].{{Sfn|Chisholm|1911|p=105}} Nebuchadnezzar II phải đối mặt với tàn dư Assyria và các mối đe dọa mới là người [[Người Scythia|Scythia]] và [[Người Scythia|người]] [[Người Cimmeria|Cimmeria]], vốn là các đồng minh cũ dưới thời Nabopolassar. Nebuchadnezzar II đem quân lên Anatolia và đánh tan các thế lực này, chấm dứt mối đe dọa ở phía Bắc.
 
Người Ai Cập cố gắng trụ lại Cận Đông, có thể là để khôi phục Assyria làm vùng đệm an toàn chống lại Babylon, Media và Ba Tư, hoặc để tạo ra một đế chế mới của riêng họ. Nebuchadnezzar II tấn công người Ai Cập và đẩy họ trở lại [[Bán đảo Sinai|Sinai]]. Tuy nhiên, ông không thể khuất phục được Ai Cập như Assyria đã làm, chủ yếu là do một loạt các cuộc nổi loạn từ [[Người Israel (cổ đại)|Israel]] của [[Vương quốc Judah|Judah]] và cổ vương quốc Ephraim, [[Phoenicia]] của [[Canaan|Caanan]] và Aram của Levant. Babylon đã nghiền nát những cuộc nổi loạn này, phế truất Jehoiakim của [[Vương quốc Judah|Judah]] và áp giải một phần lớn dân số về Babylonia. Các thành phố như [[Týros|Tyre]], Sidon và [[Damascus]] cũng bị thu phục. Người [[Người Ả Rập|Ả Rập]] và các dân tộc Nam Ả Rập khác cư ngụ trong các sa mạc ở phía nam biên giới Lưỡng Hà sau đó cũng bị khuất phục.
Hàng 253 ⟶ 257:
== Liên kết ngoài ==
 
* Những ''[https://oi.uchicago.edu/sites/oi.uchicago.edu/files/uploads/shared/docs/letters_from_mesopotamia.pdf lá thư]'' của A. Leo Oppenheim ''[https://oi.uchicago.edu/sites/oi.uchicago.edu/files/uploads/shared/docs/letters_from_mesopotamia.pdf từ Lưỡng Hà]'' (1967), bao gồm các bản dịch của một số bức thư Tân Babylon (trang 183 Phản 195).
{{Syria cổ đại và Lưỡng Hà}}{{Lưỡng Hà cổ đại}}
[[Thể loại:Cựu đế quốc châu Á]]
[[Thể loại:Lịch sử Kuwait]]
Hàng 259 ⟶ 264:
[[Thể loại:Lịch sử cổ đại Iran]]
[[Thể loại:Babylonia]]
[[Thể loại:Lịch sử Lưỡng Hà]]
[[Thể loại:Lưỡng Hà cổ đại]]