Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đế quốc Tân Babylon”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 31:
'''Đế quốc Tân Babylon''', còn được gọi là '''Đế chế Babylon thứ hai'''{{Sfn|Zara|2008|p=4|pp=}} và thường được các nhà sử học nhắc đến là '''Đế chế Chaldea''',{{Sfn|Dougherty|2008|p=1|pp=}} là đế quốc [[Lưỡng Hà]] lớn cuối cùng được cai trị bởi các vị vua bản địa Lưỡng Hà.{{Sfn|Hanish|2008|p=32}} Bắt đầu với việc Nabopolassar lên ngôi với tư cách là Vua của Babylon vào năm 626 TCN và trở nên hùng mạnh sau sự sụp đổ của [[Đế quốc Tân Assyria]] vào năm 612 TCN, Đế quốc Tân Babylon chỉ tồn tại trong ít hơn một thế kỷ và cuối cùng bị [[Đế quốc Achaemenes|Đế chế Achaemenes]] [[Lịch sử Iran|Ba Tư]] chinh phục vào năm 539 TCN.
 
Việc Assyria thua trận và chuyển giao vị trí đế quốc cho [[Văn minh cổ Babylon|Babylonia]] đã đánh dấu lần đầu tiên thành phố [[Babylon]] nói riêng và vùng Nam Lưỡng Hà nói chung, trỗi dậy thống trị vùng [[Cận Đông cổ đại]], kể từ khi [[Đế chế Cổ Babylon|Đế chế cổ Babylon]] của [[Hammurabi]] sụp đổ gần một ngàn năm trước. Thời kỳ Tân Babylon chứng kiến sự tăng trưởng kinh tế và dân số chưa từng có trên khắp Babylonia cùng với sự phục hưng của văn hóa nghệ thuật, với những công trình xây dựng hoành tráng, đặc biệt là ở Babylon, làm sống lại nhiều nét đặc trưng cổ của văn hóa [[Văn minh cổ Babylon|Sumer-Akkad]] từ hai ngàn năm trước đó hoặc xa hơn nữa.
 
Đế chế vẫn giữ được một vị trí đặc biệt trong văn hóa hiện đại ngày nay chủ yếu là do hình ảnh tiêu cực của Babylon và vua [[Naboukhodonosor II|Nebuchadnezzar II]] được thể hiện trong [[Kinh Thánh]], quy trách nhiệm cho Nebuchadnezzar trong việc tàn phá Jerusalem năm 587 TCN và cầm tù người Do Thái ở Babylon. Trong khi đó, các nguồn sử liệu Babylon mô tả triều đại của Nebuchadnezzar là thời kỳ hoàng kim đã đưa Babylonia trở thành đế chế vĩ đại nhất thời bấy giờ.
Dòng 38:
 
== Bối cảnh ==
[[Tập tin:Babylone_1.PNG|trái|nhỏ| Bản đồ của [[Đế chế Cổ Babylon|Đế chế Cổ Babylon cổ đại]] dưới thời [[Hammurabi]] (r.   {{Circa|}} 1792 Nền1750-1750 TCN). ]][[Văn minh cổ Babylon|Babylonia]] được thành lập một thủ lĩnh [[Amorite]] là Sumu-abum {{Circa|}} 1894 TCN. Trong hơn một thế kỷ sau khi thành lập, nó là một quốc gia tiểu nhược, bị lu mờ bởi các quốc gia mạnh hơn như [[ Trong|Isin]], [[Larsa]], [[Assyria]] và [[Elam]]. Tuy nhiên, [[Hammurabi]] ({{Circa|}}1792-1750 TCN) đã biến Babylon thành một cường quốc và chinh phục toàn bộ [[Lưỡng Hà]], thành lập [[Đế chế Cổ Babylon]]. Sau cái chết của Hammurabi, Đế quốc Babylon suy tàn, và Babylon một lần nữa trở lại là một quốc gia nhỏ.'''''{{Sfn|Van De Mieroop|2005|pp=3–16}}''''' Babylonia rơi vào vua [[Người Hitti|Hittite]] Mursili I {{Circa|}}1595 TCN, sau đó bị [[người Kassite]] cai trị trong gần năm thế kỷ trước người Babylon nổi dậy giành độc lập.'''''{{Sfn|Bryce|2005|p=99|pp=}}'''''
 
Dân số Babylonia trong thời kỳ hậu Kassite hoặc Trung Babylon này bao gồm hai nhóm chính; người Babylon bản địa (bao gồm hậu duệ của [[Sumer|người Sumer]] và [[Đế quốc Akkad|Akkad]], người Amorite và Kassite bị đồng hóa) và những người di cư mới (như [[Người Aram|Aram]] và [[Chaldea]]). Đến thế kỷ thứ 8, các nhóm dân tộc bản địa mất dần bản sắc và đã dung hòa thành một nền văn hóa "Babylon" thống nhất.'''''{{Sfn|Brinkman|1984|p=11}}''''' Đồng thời, người Chaldea, mặc dù vẫn giữ hình thái bộ tộc và lối sống của họ, ngày càng trở nên "Babylon hóa". Những người Chaldea được Babylon hóa này dần nằm vai trò quan trọng trong chính trị Babylon và vào năm 730 TCN, tất cả các bộ lạc Chaldea lớn đều có ít nhất một vị vua Babylon.'''''{{Sfn|Brinkman|1984|p=15}}'''''
Dòng 69:
 
==== Ba Tư xâm lược ====
[[Tập tin:Cyrus_invasion_of_Babylonia.svg|nhỏ| Bản đồ hướng xâm lược Babylonia của [[Cyrus Đại đế]] năm 539 TCN. ]]Vị vua Babylon cuối cùng, Nabonidus (''Nabu-na'id'', 556-539 TCN), là con trai của nữ tư tế người Assyria Adda-Guppi, xuất thân từ [[Harran]] (Kharranu), kinh đô cuối cùng của Assyria. Thông tin liên quan đến Nabonidus có nguồn gốc chủ yếu từ một phiến đất sét có ghi niên hiệu của Nabonidus, và dòng chữ khắc ghi công ông xây dựng lại ngôi đền của Thần mặt trăng [[Tội lỗi|Sin]] tại Harran; cũng như trong tuyên cáo của [[Cyrus Đại đế|Cyrus]] được ban hành ngay sau khi ông chiếm được Babylonia.{{Sfn|Chisholm|1911|p=105}}
 
Nhiều yếu tố phát sinh dẫn đến sự sụp đổ của Babylon. Dân chúng Babylonia trở nên bất mãn với Nabonidus do ông quy tập toàn bộ hoạt động thờ phụng đa thần về đền thờ chính Marduk ở Babylon, dẫn đến bỏ bê giới tăng lữ địa phương. Ông cũng không được lòng quân đội do sở thích nghiên cứu khảo cổ của mình. Nabonidus có vẻ đã để cho con trai Belshazzar (một vị tướng có khả năng nhưng kém về ngoại giao, không được lòng giới tinh hoa chính trị) nhiếp chính, còn mình thì mải khai quật ghi chép lưu trữ của các đền thờ và xác định ngày tháng xây dựng.{{Sfn|Chisholm|1911|p=105}} Ông cũng dành nhiều thời gian bên ngoài Babylon, xây dựng lại các ngôi đền ở thành phố Harran của Assyria, hoặc ở tại các vùng chư hầu Ả Rập trong các sa mạc ở phía nam Lưỡng Hà. Nguồn gốc Assyria của Nabonidus và Belshazzar cũng có thể khiến cho sự phẫn nộ gia tăng. Ngoài ra, các thế lực quân đội tại Lưỡng Hà thường tập trung ở các vùng Assyria cũ, nhưng không còn Assyria kiềm chế, khiến cho Babylonia ở vào thế không được phòng thủ và dễ bị xâm chiếm hơn so với phía bắc.[[Tập tin:Cyrus_invasion_of_Babylonia.svg|nhỏ| Bản đồ hướng xâm lược Babylonia của [[Cyrus Đại đế]] năm 539 TCN. ]]Vào năm thứ sáu triều Nabonidus (549 TCN), [[Cyrus Đại đế]], "vua của Anshan" người Achaemenid Ba Tư ở Elam, đã nổi dậy chống lại ách thống trị của [[Astyages]], "vua của Manda" hoặc Media, tại Ecbatana. Quân đội của Astyages ngả theo phe Cyrus. Đế chế Media sụp đổ và người Ba Tư thành bá chủ của các dân tộc Iran.{{Sfn|Chisholm|1911|pp=105–106}} Ba năm sau, Cyrus trở thành vua của Ba Tư và dập tắt cuộc nổi dậy của người Assyria. Trong khi đó, Nabonidus đã lập doanh trại ở sa mạc thuộc địa Ả Rập của mình, gần biên giới phía nam vương quốc, để lại con trai Belshazzar (''Belsharutsur'') chỉ huy quân đội.
 
Vào năm thứ sáu triều Nabonidus (549 TCN), [[Cyrus Đại đế]], "vua của Anshan" người Achaemenid Ba Tư ở Elam, đã nổi dậy chống lại ách thống trị của [[Astyages]], "vua của Manda" hoặc Media, tại Ecbatana. Quân đội của Astyages ngả theo phe Cyrus. Đế chế Media sụp đổ và người Ba Tư thành bá chủ của các dân tộc Iran.{{Sfn|Chisholm|1911|pp=105–106}} Ba năm sau, Cyrus trở thành vua của Ba Tư và dập tắt cuộc nổi dậy của người Assyria. Trong khi đó, Nabonidus đã lập doanh trại ở sa mạc thuộc địa Ả Rập của mình, gần biên giới phía nam vương quốc, để lại con trai Belshazzar (''Belsharutsur'') chỉ huy quân đội.
 
Năm 539 TCN, Cyrus xâm chiếm Babylonia. Vào tháng 6, Opis bị chiếm; ngay sau đó Sippar đầu hàng. Nabonidus chạy về Babylon, và bị Gobryas bắt giữ. Vào ngày 16 lịch Tammuz, hai ngày sau khi Sippar đầu hàng, "binh sĩ của Cyrus vào Babylon mà không gặp phải sự kháng cự nào." Cho đến tận ngày 3 của ''Marchesvan'' (tháng Mười) Cyrus mới đến, trong thời gian đó Gobryas thay mặt cho ông và được phong làm tổng trấn của tỉnh Babylon. Vài ngày sau đó Belshazzar tử trận. Tang lễ được tổ chức kéo dài 6 ngày, con trai của Cyrus là [[Cambyses II|Cambyses]] đi cùng lễ rước thi hài nhập táng.{{Sfn|Chisholm|1911|p=106}} Một trong những đạo luật đầu tiên của Cyrus là cho phép những người lưu vong Do Thái trở về nhà. Qua đó Cyrus thể hiện mình chính thức sở hữu ngai vàng Babylon.{{Sfn|Chisholm|1911|p=106}} Cyrus tuyên bố là người thừa kế hợp pháp của các vị vua Babylon cổ đại và là kẻ báo thù cho thần Marduk, người đã rất phẫn nộ trước sự bất kính của Nabonidus khi đem các tượng thần địa phương khỏi đền thờ gốc của họ tới thủ đô Babylon.{{Sfn|Chisholm|1911|p=106}}
Hàng 194 ⟶ 192:
== Xem thêm ==
 
* [[LịchVăn sửminh Lưỡngcổ Babylon]]
*[[Lịch sử Lưỡng Hà]]
 
== Ghi chú ==