Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Quy thức kiến trúc cổ Việt Nam”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Cleanup |
|||
Dòng 3:
==Hình ảnh ban đầu==
[[Kiến trúc cổ Việt Nam]] còn lại không nhiều và không hẳn là những công trình tiêu biểu nhất. Tinh hoa của kiến trúc cổ Việt Nam đã bị chôn vùi sau các cuộc tàn phá triệt hạ sáp nhập văn hóa phương Nam của [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]] và quy luật thời gian nên đa số những công trình cổ còn hiện hữu, có niên đại từ thời [[Nhà Lê trung hưng|nhà Lê Trung Hưng]] (thế kỷ 16) đến thời [[nhà Nguyễn]] (thế kỷ 19-20). Kiến thức về kiến trúc thời [[nhà Lý|Lý]]-[[nhà Trần|Trần]], vốn được xem là thời kỳ văn minh rực rỡ nhất của [[Đại Việt]], từng sánh ngang cùng Trung Hoa phương Bắc, nhưng về di tích cổ thì số còn sót lại rất ít. Những nền đất còn lại của các ngôi chùa từ thời kỳ này như [[chùa Phật Tích]], [[chùa Dâu]]... dù không trọn vẹn có nhiều chi tiết được thay thế vẫn chứng minh được quy mô và kỹ thuật xây cất của hai triều Lý Trần. Tuy vậy, số công trình cho đến thế kỷ 20 còn lại trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay cũng minh định khá rõ cách thức xây dựng trong dân gian và nơi cung đình, tạo nên "quy thức kiến trúc cổ Việt Nam". Nên lưu ý nhiều giá trị văn hóa
===Kiến trúc cung đình===
Dòng 9:
===Kiến trúc dân gian===
Khi nói riêng về kiến trúc dân gian Việt Nam, nhiều người lầm tưởng đây là một sao bản của kiến trúc Trung Hoa, tuy nhiên chính kiến trúc Việt Nam mới ảnh hưởng lớn đến kiến trúc Trung Hoa.
Kiến trúc cung đình và dân gian Việt Nam cũng lấy [[gỗ]] làm vật liệu xây dựng cơ bản và tạo đặc trưng riêng cho nền kiến trúc của mình, tương phản với kiến trúc chuộng dùng [[Gạch nung|gạch]] hay [[đá]] của nhiều vùng khác trên thế giới như lân bang [[Campuchia]].
Dòng 15:
==Nét đặc trưng==
[[Tập tin:National Museum Vietnamese History 47 (cropped).jpg|thế=Tượng tháp chùa, cổ vật thời Lý khai quật được tại Hoàng Thành Thăng Long.|nhỏ|Tượng tháp chùa, cổ vật thời Lý khai quật tại khu di tích Hoàng Thành Thăng Long. Thấy rõ kết cấu đấu-củng, lợp ngói âm dương]]
Có
*Dốc mái thẳng, đao cong.
*Dùng [[Bảy (kiến trúc)|bảy]], [[bảy (kiến trúc)|kẻ]] đỡ mái hiên (chủ yếu thời Lê, Nguyễn) hoặc là hệ [[đấu củng]] (
*Cột mập to, phình ở phần giữa thân dưới
Dòng 33:
Trang trí trên mái cổ thường có các phần đặc trưng như những con giống gắn trên đầu đao, trong đó con giống luôn là hình tượng thể hiện tinh thần ngôi nhà, được làm từ [[đất nung]] hay [[vữa]] truyền thống. Tiếp theo là các bờ nóc có đặt [[gạch hoa chanh]], đỉnh mái gắn [[con kìm]] (long [[con nghê|nghê]]<ref>[http://ape.gov.vn/nghe-la-nghe-thoi-ds569.th Nghê là nghê thôi.]</ref>, hay [[cá chép]] hóa rồng) ở hai đầu bờ nóc, con sô ở chỗ bờ quyết (bờ guột), con náp, hay lạc long thủy quái. "Khu đĩ" thường để trống thông thoáng và có chạm yếm trang trí gọi là "vỉ ruồi".
[[Tập tin:Gac chuong chua Keo 3.jpg|thế=Kiến trúc hệ đấu-củng Việt Nam|nhỏ|Kiến trúc hệ đấu-củng Việt Nam. Chùa Keo, Thái Bình]]
Hệ thống đỡ mái hiên là bằng cây Bảy/
Ngói được sử dụng có thể là ngói âm dương ([[ngói lưu ly]]) hoặc ngói hài (ngói vảy):
Dòng 45:
Sức nặng công trình được đặt lên cột, cột đặt lên các đế chân cột chứ không chôn xuống nền và chính sức nặng của công trình làm công trình ổn định và vững vàng.
Căn nhà được xây dựng theo các vì nhà, sau đó các vì được dựng lên và nối với nhau bằng các xà ngang và xà ngưỡng tạo thành một hình hộp, sau đó là lợp mái và làm tường nhà. Vì nhà chính là đơn vị cơ bản khi nói đến kích thước ngôi nhà, giữa hai vì gọi là "gian". Vì nhà cũng là đặc trưng cho lối
=== Chạm khắc ===
Dòng 72:
**'''Xà lòng''', tức '''câu đầu''' hay '''chếnh''': liên kết các cột cái của khung;
**'''Xà nách''' hay '''thuận''': liên kết cột quân vào cột cái, trong khung.
**'''Đấu củng:''' bao gồm hai bộ phận là "đấu" (đóng vái trò là bệ đỡ) và "củng" (giống hình
*''[[Bảy (kiến trúc)|Kẻ]]'' là các dầm đơn đặt theo phương chéo của mái nhà, gác lên các cột bằng liên kết [[mộng]], thường có các loại kẻ sau:
**'''Kẻ ngồi''' loại kẻ gác từ cột cái sang cột quân, trong khung;
Dòng 94:
*'''Dui''' hay '''rui''' là các dầm phụ trung gian, đặt dọc theo chiều dốc mái (trực giao với hoành), gối lên hệ thống hoành.
*'''Mè''' là các dầm phụ nhỏ, đặt trực giao với dui, song song với hoành, gối lên hệ dui. khoảng cách giữa các mè là nhỏ nhất, vừa đủ để lợp ngói. Việc sử dụng hệ kết cấu hoành - dui - mè, nhằm phân nhỏ nhịp của kết cấu đỡ mái thành hệ lưới vừa đủ để lát lớp gạch
*'''Gạch màn''' là một loại gạch lá nem đơn bằng đất nung, có tác dụng đỡ ngói đồng thời tạo độ phẳng cho mái, chống thấm dột và chống nóng. Gạch màn ngồi trực tiếp trên lớp mè.
*[[Tập tin:Đầu ngói hoàng lưu ly khai quật được tại hoàng thành Thăng Long.jpg|thế=ngói hoàng lưu ly Việt Nam|nhỏ|Đầu ngói hoàng lưu ly khai quật được tại hoàng thành Thăng Long. Niên đại thời Lê]]'''Ngói âm dương ([[ngói lưu ly]])''' Từ ngàn xưa người Việt đã sáng tạo ra ngói âm dương, cấu tạo bao gồm '''Ngói Dương''' là tấm lợp nằm
*'''Ngói mũi hài''' hay '''ngói vẩy''', bằng đất nung, trực tiếp chống thấm dột và chống nóng, lợp trên lớp gạch màn và cũng có thể có lớp đất sét kẹp giữa, thường dùng cho kiến trúc dân gian, nhà ở người tầng lớp thấp, loại ngói thường thấy ở kiến trúc Thái Lan, Khmer, hay lên rêu nhanh trong điều kiện ẩm thấp, mưa gió.
Các chi tiết kiến trúc khác:
|