Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Thị Nhậm”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Bà Nhậm không mất dưới thời Tự Đức, vì mộ ghi rõ là "Tiền triều"
Dòng 8:
| thụy hiệu = <font color = "grey">Nhâm Thuận Lệnh phi</font>
| tên đầy đủ = '''Nguyễn Thị Nhậm''' (hoặc '''Nhiệm''')<br>阮氏任
| tước hiệu = Phủ thiếp (府妾)<br>Cung tần (宮嬪)<br>TrinhNhị phigiai (貞妃)Phi (phỏng đoán)<br>Lệnh phi (令妃)
| hoàng tộc =
| kiểu hoàng tộc =
Dòng 15:
| mất =
| nơi mất =
| nơi an táng = Núi Thuận Đạo (huyện [[Hương Thủy]], [[Thừa Thiên - Huế]])
| nơi an táng =
| chồng = Nguyễn Hiến Tổ<br>[[Thiệu Trị]]
| cha = [[Nguyễn Văn Nhơn]]
Dòng 29:
 
== Nhập phủ Trường Khánh ==
 
Năm [[1823]], bà Nhậm cùng với bà [[Phạm Thị Hằng]] được triều đình làm lễ cưới nạp vào phủ Trường Khánh cho Hoàng trưởng tử [[Nguyễn Phúc Miên Tông|Miên Tông]].
 
Hàng 40 ⟶ 39:
Năm [[1841]], vua [[Thiệu Trị]] đăng cơ, bà Nhậm cùng các phủ thiếp của ông đều được gọi chung là ''Cung tần'' (宮嬪), chờ mãn tang vua cha [[Minh Mạng]] rồi mới phân định vị hiệu.
 
[[Đại Nam thực lục]] đệ tam kỷ cho biết, năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), nhà vua thay đổi danh hiệu hậu cung được định ra từ thời Minh Mạng, xuống dụ nội các rằng: "''Nhân nghĩ đến chính hoá của nhà vua, tất từ nhà mà ra đến nước, trật tự trong cung cũng nên định có khác nhau. Nay chuẩn cho đặt một Hoàng quý phi, trên giúp Hoàng hậu, chủ việc ăn uống trong cung, hàng ở trên bậc thứ nhất; thứ đến Quý phi, Đoan phi, Lệnh phi làm bậc thứ nhất; Thành phi, Trinh phi, Thục phi là bậc thứ nhì; Quý tần, Lương tần, Đức tần là bậc thứ ba; Huy tần, Ý tần, Nhu tần là bậc thứ tư; Nhàn tần, Nhã tần, Thuận tần là bậc thứ năm; Tiệp dư là bậc thứ sáu; Quý nhân là bậc thứ bảy; Mỹ nhân là bậc thứ tám; Tài nhân là bậc thứ chín''"<ref>''Đại Nam thực lục'', tập 6, tr.503</ref>. Cùng lúc đó, vua phong cho bà Hằng (sau này là Thái hậu [[Từ Dụ]]) giữ chức ''Thành phi'', đứng đầu các cung giai, không lập thêm ai ở bậc trên.
 
Có nhiều nhầm lẫn cho rằng, vào năm Thiệu Trị thứ 3, bà Nhậm được sơ phong Nhất giai ''Lệnh phi'' ở hàng Nhất giai, đứng đầu hậu cung, trên cả bà Hằng. Tuy nhiên, theo ghi chép về năm [[Thiệu Trị]] thứ 6 ([[1846]]) trong bản dịch [[Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ]] (tập 6, quyển 76, trang 167) thì vuadòngdụ như sau: “''Lại năm ấy tấn phong Quý phi, Lệnh phi, Lương phi, Thục phi và Thụy tần trở xuống''”. Điều này có nghĩa là bà Nhậm và bà Hằng đều được tấn phong lên bậc Nhất giai Phi vào năm này, tức là không hề có chuyện bà Nhậm là phi tần có thứ bậc cao nhất trong hậu cung ngay từ năm Thiệu Trị thứ 3.
 
Phân vị của bà Nhậm vào lần đại phong hậu cung đầu tiên, tuy không được chép nhưng dựa vào việc đến năm Thiệu Trị thứ 6 bà mới được phong làm ''Lệnh phi'' thì có thể suy đoán bà Nhậm cao nhất cũng chỉ được phong ''Trinh phi'' (貞妃) hoặc ''Thục phi'' (淑妃) ở hàng Nhị giai, vì các bậc Tam giai, Tứ giai đều đã có người tại vị.
 
Năm [[Thiệu Trị]] thứ 6 ([[1846]]), bà chính thức được sách phong làm '''Nhất giai Lệnh phi''' (一階令妃). LúcNăm nàyđó, vua xuống dụ: “''Đoan phi cho đổi làm Lương phi, thuộc nhất giai, chữ "lương" ở bậc tam giai đã đưa tấn phong cho bậc nhất giai thì Lương tần cho đổi làm Thụy tần thuộc tam giai''”. Chức ''Đoan phi'' lúc đầu đứng thứ hai trong bậc Nhị giai, khi cải thành ''Lương phi'' được đưa xuống vị trí thứ ba, cứ theo lời dụ “''Lại năm ấy tấn phong Quý phi, Lệnh phi, Lương phi, Thục phi và Thụy tần trở xuống''”. Như vậy, Lệnh phi Nguyễn Văn thị đứng thứ 2hai trong hậu cung, chỉ sau Quý phi họ Phạm thị, tức bà [[Từ Dụ]] tháiThái hậu về sau này.
 
== Qua đời ==
Không rõ Lệnh phi Nguyễn Văn thị mất năm nào. Bà, được ban [[tên thụy]] là '''Nhâm Thuận'''. MộBà được táng tại núi Thuận Đạo (thuộc xã [[Thủy Bằng]], huyện [[Hương Thủy]], [[Thừa Thiên - Huế]]), cũng là nơi tọa lạc của [[Xương Lăng]], tẩm lăng của vua [[Thiệu Trị]]. Từ Xương Lăng, đi về hướng nam-tây nam là Xương Thọ Lăng, tẩm lăng của bà [[Từ Dụ]]; đi về hướng bắc-đông bắc là tẩm của bà Lệnh phi. Tẩm mộ của Lệnh phi Nguyễn Văn thị đã bị hư hỏng khá nặng, trên bia mộ khắc chữ "''Tiền triều Lệnh phi thụy Nhâm Thuận Nguyễn Văn thị chi tẩm''". Táng gần đó là mộ của một bà Tài nhân họ Nguyễn Đăng của vua [[Thiệu Trị]], không rõ danh tính[[húy]] của bà Tài nhân này vì vua [[Thiệu Trị]]tớiđến 4 bà [[Tài nhân]] đều mang họ Nguyễn, được ghi nhận trong Thế phả.
 
== Trong văn hóa đại chúng ==
Hàng 62 ⟶ 61:
== Tham khảo ==
* Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc Tộc (1995), ''[http://www.namkyluctinh.com/a-sachsuvn/Nguyen_Phuc_Toc_The_Pha.pdf Nguyễn Phúc Tộc thế phả]'', Nhà xuất bản Thuận Hóa
* [[Quốc sử quán triều Nguyễn]] (2006), ''[[Đại Nam thực lục]] chínhChính biên'', Tổ Phiên dịch [[Viện Sử học]] dịch, Nhà xuất bản Giáo dụcc
* [[Quốc sử quán triều Nguyễn]] (2006), ''[[Đại Nam thực lục]] chínhChính biên'', Tổ Phiên dịch [[Viện Sử học]] dịch, Nhà xuất bản Giáo dục
 
== Chú thích ==