Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến dịch Điện Biên Phủ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 296:
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng [[Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam|Bộ Chính trị]] và Tổng Quân ủy đã đề ra những giải pháp quyết đoán và đầy sáng tạo. Một mặt, Bác động viên nhân dân Tây Bắc ra sức tiết kiệm để đóng góp tại chỗ. Mặt khác, Bác lại động viên dân công phối hợp với công binh ra sức đẩy mạnh việc làm đường, sửa đường, huy động tối đa các phương tiện vận chuyển thô sơ như: xe ngựa, xe đạp thồ, thuyền bè... nhằm giảm đến mức tối đa lượng lương thực thực phẩm tiêu thụ dọc đường do phải đưa từ xa tới.
 
Số dân công chỉ tính từ trung tuyến trở lên, đã cần tới 14.500 người. Về chuẩn bị đường sá, các con đường thuộc tuyến chiến dịch đều phải bảo đảm vận chuyển bằng ô tô. Trước đây, để chuẩn bị đánh [[Nà Sản]], con đường 13 từ [[Yên Bái]] lên Tạ Khoa đã sửa chữa xong, nhưng lúc này cần tiếp tục tu bổ thêm. Đường từ [[Mộc Châu]] đi [[Lai Châu]] rất xấu, phải sửa chữa nhiều. Phân công cho Bộ Giao thông Công chính phụ trách đường 13 lên tới Cò Nòi, và đường 41 từ [[Mộc Châu (thị trấn)|Mộc Châu]] lên [[Sơn La]], bộ đội phụ trách quãng đường 41 còn lại từ [[Sơn La]] đi [[Tuần Giáo]], và từ [[Tuần Giáo]] đi [[Điện Biên Phủ]] (sau này gọi là đường 42). Hai trung đoàn bộ binh cùng bộ đội công binh và hàng ngàn dân công được huy động để mở rộng 89 km đường và tu sửa 100 cầu hư hỏng trên đường Tuần Giáo - Điện Biên Phủ để ô tô gấp rút chuyển gạo và đạn cho các đơn vị. Hậu cần chiến dịch còn tổ chức tuyến vận tải bộ Sơn La - Mường Luân - Nà Sang bảo đảm cho các đơn vị ở Hồng Cúm; tổ chức thuyền, bè mảng theo sông Nậm Na chuyển 1.700 tấn gạo do Trung Quốc viện trợ từ Ba Nậm Cúm về Lai Châu. Thời gian tiến hành từ tháng 12 năm [[1953]]. rong giai đoạn chuẩn bị, các lực lượng cầu đường đã làm mới 89 km và sửa chữa nâng cấp được 500 km đường.
 
Toàn bộ 16 đại đội xe ô tô vận tải (534 xe) của Tổng cục Cung cấp đã được sử dụng (tuyến chiến dịch sử dụng 446 xe); có thời gian còn được tăng cường 94 xe của các các đơn vị binh chủng.
 
Để một lực lượng mạnh cho chiến dịch Điện Biên Phủ, [[chính phủ]] [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] đã huy động tối đa về sức người và sức của: hàng vạn dân công và bộ đội làm đường dã chiến trong khoảng thời gian cực ngắn, dưới các điều kiện rất khó khăn trên miền núi, lại luôn bị [[máy bay]] Pháp oanh tạc. Các dân công từ vùng do [[Việt Minh]] kiểm soát đi tiếp tế bằng gánh gồng, xe đạp thồ kết hợp cùng cơ giới đảm bảo [[hậu cần]] cho chiến dịch. Đội quân gồm [[thanh niên xung phong]], dân công hỏa tuyến, được huy động tới hàng chục vạn người (gấp 5 lần số bộ đội chủ lực) và được tổ chức biên chế như [[quân đội]].
Hàng 302 ⟶ 304:
Một trong những lực lượng quan trọng phục vụ [[hậu cần]] cho chiến dịch là đội xe thồ trên 2 vạn người, với năng suất tải mỗi xe chở được 200–300&nbsp;kg,<ref name="TP"/> kỷ lục lên đến 352&nbsp;kg (người đó là ông Ma Văn Thắng, một dân công ở Thanh Ba (Phú Thọ), tại [[Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam]] có trưng bày chiếc xe đạp thồ của ông). Xe thồ được cải tiến có thể cho năng suất chở hàng cao hơn gấp hơn 10 lần dân công gánh bộ, đồng thời giảm được mức tiêu hao gạo ăn dọc đường cho người chuyên chở. Ngoài ra, xe thồ còn có thể hoạt động được trên cả những tuyến đường ghồ ghề mà xe ô tô không thể đi được. Chính phương tiện vận chuyển thô sơ này đã gây nên sự bất ngờ lớn ngoài tầm dự tính của các chỉ huy [[Pháp]], làm đảo lộn toàn bộ những tính toán, dự đoán trước đây của Pháp khi cho rằng [[Việt Minh]] không thể bảo đảm hậu cần cho một chiến dịch lớn, dài ngày trong các điều kiện phức tạp như vậy được.
 
Trong một tháng, bộ đội và [[thanh niên xung phong]] đã làm được một khối lượng công việc đồ sộ. Con đường [[Tuần Giáo]] - [[Điện Biên Phủ]], dài 82&nbsp;km, trước đây chỉ rộng 1 m, đã được mở rộng và sửa sang cho xe kéo pháo vào cách [[Điện Biên]] 15&nbsp;km. Từ đây, các khẩu pháo được kéo bằng tay vào trận địa trên quãng đường dài 15&nbsp;km. Đường kéo pháo rộng 3 mmét, chạy từ cửa rừng Nà Nham, qua đỉnh Pha Sông cao 1.150 mét, xuống [[Bản Tấu]], đường [[Điện Biên Phủ]] - [[Lai Châu]], tới Bản Nghễu, mở mới hoàn toàn. Để bảo đảm bí mật, đường được ngụy trang toàn bộ, máy bay trinh sát [[Pháp]] khó có thể phát hiện.
 
Tổng cộng trong thời gian tiến hành chiến dịch, [[Việt Minh]] đã huy động được hơn 26 vạn261.451 dân công từ các dân tộc Tây Bắc, [[Việt Bắc]], [[Liên khu|Liên khu 3]], [[Liên khu|Liên khu 4]]…, 20.911991 xe đạp thồ, 11.800 bè mảng, đóng góp cho chiến dịch 25.000 tấn lương thực. Trừ số tiêu hao dọc đường, số tới được mặt trận để cung cấp cho quân đội là 14.950 tấn gạo, 266 tấn muối, 62 tấn đường, 577 tấn thịt, 565 tấn lương khô. Ngoài ra, từ [[Thanh Hóa]], [[Hòa Bình]], [[Vĩnh Yên]], [[Phúc Yên]], [[Thái Nguyên]], [[Phú Thọ]]… cũng đã huy động được hơn 7.000 xe cút kít, 1.800 xe trâu, 325 xe ngựa, hàng chục ngàn xe đạp thồ để phục vụ hậu cần chiến dịch. Trừ số tiêu hao dọc đường, số hàng tới được mặt trận để cung cấp cho quân đội là 14.950 tấn gạo, 266 tấn muối, 62 tấn đường, 577 tấn thịt, 565 tấn lương khô, 1.200 tấn đạn, 1.733 tấn xăng dầu và 177 tấn vật chất khác. Số lượng hàng hóa bảo đảm cho hơn 87.000 người tham gia chiến dịch, trong đó 53.830 người trực tiếp chiến đấu (dự kiến 35.000 người); vận chuyển và cứu chữa 8.458 thương bệnh binh (dự kiến 5.000)<ref>''Công tác hậu cần chiến dịch Điện Biên Phủ'', Tổng cục Hậu cần năm 1979, tr. 594.</ref>
 
Để ngăn chặn, máy bay Pháp đã không kích 1.186 trận vào các tuyến giao thông, ngày cao nhất sử dụng 250 lần máy bay ném bom (có cả máy bay B-26). Các đèo Lũng Lô, Pha Đin, các đầu mối giao thông Cò Nòi, Tuần Giáo, bến phà Tạ Khoa... thành trọng điểm đánh phá, có ngày Pháp ném xuống Cò Nòi và đèo Pha Đin 160-300 quả bom các loại. Để bảo đảm giao thông thông suốt, Bộ chỉ huy Chiến dịch đã sử dụng 2 tiểu đoàn pháo cao xạ 37 mm, các tiểu đoàn súng máy 12,7mm bắn máy bay; 4 tiểu đoàn công binh cùng hàng vạn dân công bám các trục đường để sửa chữa. Từ tuyến trung tuyến trở lên đã sửa được 308 km đường ô tô, làm mới 63 km đường kéo pháo, phá 102 thác để tổ chức vận tải thuỷ trên sông Nậm Na. Tổng khối lượng đào đắp lên tới 35.000m3 đất, 15.000m3 đá, phá hàng ngàn quả bom nổ chậm. Vì vậy, trong suốt Chiến dịch ''“...hiếm có đoạn đường nào bị đứt quá 24 giờ. Hơn nữa, trong thời gian đường bị cắt đứt, việc vận chuyển vẫn được tiếp tục bằng cách chuyển tải hoặc đi vòng đường khác”''<ref>[https://www.qdnd.vn/tap-chi-hau-can-quan-doi/cong-tac-van-tai-trong-chien-dich-dien-bien-phu-463025 Công tác vận tải trong chiến dịch Điện Biên Phủ]</ref>.
Tổng cộng trong thời gian tiến hành chiến dịch, [[Việt Minh]] đã huy động được hơn 26 vạn dân công từ các dân tộc Tây Bắc, [[Việt Bắc]], [[Liên khu|Liên khu 3]], [[Liên khu|Liên khu 4]]…, 20.911 xe đạp thồ, 11.800 bè mảng, đóng góp cho chiến dịch 25.000 tấn lương thực. Trừ số tiêu hao dọc đường, số tới được mặt trận để cung cấp cho quân đội là 14.950 tấn gạo, 266 tấn muối, 62 tấn đường, 577 tấn thịt, 565 tấn lương khô. Ngoài ra, từ [[Thanh Hóa]], [[Hòa Bình]], [[Vĩnh Yên]], [[Phúc Yên]], [[Thái Nguyên]], [[Phú Thọ]]… cũng đã huy động được hơn 7.000 xe cút kít, 1.800 xe trâu, 325 xe ngựa, hàng chục ngàn xe đạp thồ để phục vụ hậu cần chiến dịch.<ref>''Công tác hậu cần chiến dịch Điện Biên Phủ'', Tổng cục Hậu cần năm 1979, tr. 594.</ref>
 
Ngoài ra, Pháp cũng đã đánh giá sai khả năng pháo binh của QĐNDVN khi cho rằng đốiđịa phươnghình vốnrừng núi quá hiểm trở, không có xeđường giao giớithông nên đối phương không thể mang [[pháo]] lớn ([[lựu pháo]] 105&nbsp;mm và pháo phòng không [[61-K 37 mm|37 mm]]) vào [[Điện Biên Phủ]] mà chỉ có thể mang loại pháo nhẹ là [[sơn pháo]] 75&nbsp;mm trợ chiến mà thôi. ĐápTrong lạithực tế, tất cả vũ khí của quân Pháp trong trận này đều là do không quân vận tải đến, các tướng Pháp cho rằng xe vận tải không thể chạy tới Điện Biên Phủ được. Tuy nhiên, những người lính pháo binh của QĐNDVN đã khôn khéo tháo rời những chi tiết có thể tháo rời được một cách đơn giản và dễ dàng của khẩu pháo (như bệ pháo, nòngtấm pháochắn, quy-lát pháo,...) rồi dùng sức người để vận chuyển đến trận địa. Sau khi đến trận địa thì bộ đội ta tiến hành lắp ráp những chi tiết này lại với nhau một cách bí mật, nhanh chóngchínhnhanh xácchóng. Bằng cách thức đơn giản đó, bội đội taViệt Nam đã đưa được thành công những khẩu lựu pháo 105&nbsp;mm nặng tới 2,2 tấn (hay những cỗ pháo phòng không 37mm nặng 2,1 tấn) lên bố trí sâu trong các hầm pháo được lính công binh khoét sâu vào các lòng núi, sườn núi, xây dựng thành các trận địa pháo bí mật, an toàn nhưng lại rất nguy hiểm và lợi hại với ngườiquân Pháp. Từ trên cao, những trận địa này có khả năng khống chế rất tốt lòng chảo [[Điện Biên Phủ]] mà lại cực kỳ an toàn trước bom và pháo của đối phương. Với thế trận hỏa lực này, các khẩu pháo của QĐNDVN được đặt chỉ cách mục tiêu 5–7&nbsp;km, chỉ bằng một nửa tầm bắn tối đa để bắn chính xác hơn, ít tốn đạn và sức công phá cao hơn,<ref>Chiến thắng Điện Biên Phủ - Sức mạnh chính trị tinh thần và sức mạnh của trí tuệ Việt Nam, Tác giả: [[Thượng tướng]] [[Hoàng Minh Thảo]].</ref> thực hiện đúng nguyên tắc ''"hỏa khí phân tán, hỏa lực tập trung"'', từ nhiều hướng bắn vào một trung tâm,. ngượcNgược lại, pháo binh [[Pháp]] lại bố trí ở trung tâm, phơi mình tơ hơ trên trận địa, nhanh chóng trở thành mồi cho pháo Việt Minh ngắm thẳng vào bắn phá.
 
Các trang bị vũ khí (pháo binh và đạn dược) chủ yếu do [[Trung Quốc]] viện trợ. Theo Đại tướng [[Lê Đức Anh]] nhận xét trong hồi ký của ông thì ''"Ở Điện Biên Phủ, nếu không có lựu pháo, vũ khí, đạn dược và quân trang quân dụng của [[Trung Quốc]] giúp đỡ thì [[Việt Nam]] khó giành được thắng lợi".''<ref>[http://dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/tu-lieu-ve-dang/sach-chinh-tri/books-072220169080846/index-37222016948274613.html]</ref> Mặc dù vậy, lượng viện trợ không có nhiều và việc vận chuyển cũng rất khó khăn. Việc sử dụng đạn pháo 105mm của QĐNDVN trong chiến dịch phải rất tiết kiệm. Trước mỗi trận đánh có hiệp đồng binh chủng, số lượng đạn pháo đều phải được duyệt trước. Ngoài ra, các [[trung đoàn]], [[đại đoàn]] muốn xin pháo chi viện thì cứ 3 viên phải được phép của Tham mưu trưởng chiến dịch kí duyệt, 5 viên trở lên phải được đích thân Tổng Tư lệnh [[Võ Nguyên Giáp]] kí duyệt. Bởi với dự trữ chỉ có khoảng hơn 10.000 viên đạn pháo 105mm, nếu bắn cấp tập theo kiểu ''"nã thẳng tay"'' như [[Pháp]] thì các khẩu pháo 105mm của [[Việt Nam]] sẽ hết sạch đạn chỉ sau vài ngày.
 
Bên cạnh đó, các chỉ huy pháo binh QĐNDVN còn lập trận địa giả để nghi binh – dùng những thanh gỗ sơn thui đen rồi sắp xếp lại thành những khẩu pháo giả, nghếchghếch nòng lên. Khi trận địa thật khai hỏa thì chiến sĩ phụ trách nghi binh từ trong công sự chui ra rồi anh ta tung từ 1 đến 3 quả bộc phá (mỗi quả nặng khoảng từ 252,5 đến 303 cânkg thuốc nổ) lên trên không thật cao. Xong xuôi, anh ta sẽ chạy thật nhanh ra khỏi khu vực đó. Máy bay trinh sát Pháp sẽ nghĩ đó là pháo Việt Minh nên sẽ phát tín hiệu cho pháo binh và không quân Pháp tiến hành phản kích, bắn phá tơi bời. Sau khi mất khoảng 80% bom đạn để đánh các "khẩu pháo" làm bằng gỗ "trị giá" vài đồng bạc lẻ của Việt Minh thì các chỉ huy [[Pháp]] mới nhận ra là mình đã bị Việt Minh lừa cho một vố đau. Suốt chiến dịch, pháo binh QĐNDVN chỉ hỏng một pháo 105mm (Khẩu pháo này vốn đã bị hỏng hóc tương đối nhiều từ lúc mà Trung Quốc tiến hành hỗ trợ cho Việt Minh một lô 20 khẩu pháo 105mm do họ thu giữ được từ tay quân đội Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch trong thời kỳ [[Nội chiến Trung Quốc-Cộng]] ở Trung Quốc, những khẩu lựu pháo 105mm này vốn là do Hoa Kỳ tiếnchế hànhtạo và viện trợ cho Trungquân Hoađội DânTưởng quốcGiới Thạch trong suốt [[Thế chiến 2]] và thời kỳ [[Nộinội chiến Trung Quốc-Cộng]] với tư cách là "đồng minh" của Mỹ). Đây là một nguyên nhân làm cho pháo binh Pháp dù có các thiết bị phản pháo hiện đại vẫn bị thất bại. Tướng [[Võ Nguyên Giáp]] về sau nhận xét: ''"Thực tế kinh nghiệm này của chiến dịch [[Điện Biên Phủ]] đã trở thành truyền thống chiến đấu dùng thô sơ đánh hiện đại của quân đội ta trong suốt chiều dài chống Mỹ cứu nước".'' Còn tướng Paul Ély, Tổng Tham mưu trưởng [[Quân đội Pháp]] khi diễn ra trận [[Điện Biên Phủ]], sau này nhận định: ''"Một lần nữa, kỹ thuật lại bị thua bởi những con người có tâm hồn và một lòng tin".'' <ref>Paul Ély, ''Đông Dương trong cơn hấp hối'', tr.163.</ref>
 
==Chuyển đổi phương án tác chiến==