Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vương quốc Yemen”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 37:
|calling_code=967
}}
'''Vương quốc Mutawakkilite Yemen''' ({{Lang-ar|المملكة المتوكلية الهاشمية}} ''al-Mamlakah al-Mutawakkilīyah Al-Hashimiyah''), còn được gọi là '''Vương quốc Yemen''', hoặc '''Bắc Yemen''', là một quốc gia tồn tại giữa năm 1918 và 1962 ở phía bắc của [[Yemen]] ngày nay. Thủ đô của nó là [[Sana'a]]
== Lịch sử ==
Các nhà lãnh đạo tôn giáo giáo Phái Zaydi của Hồi giáo Shia đã trục xuất các lực lượng của [[Đế quốc Ottoman]] khỏi phía bắc Yemen vào giữa thế kỷ XVII. Nhưng trong một thế kỷ tiếp theo, sự thống nhất của Yemen đã bị rạn nứt do khó khăn trong việc quản lý vùng lãnh thổ miền núi. Năm 1849, Đế quốc Ottoman chiếm đóng khu vực bờ biển [[Tihamah]] để gây áp lực đối với lãnh tụ Hồi giáo Zaiddiyah, ép ông ký một hiệp ước công nhận Ottoman là một quốc gia và cho phép một lực lượng nhỏ của Ottoman được đóng quân ở [[Sana'a]]. Tuy nhiên, Ottoman đã chậm trong việc kiểm soát Yemen, và không bao giờ loại bỏ thành công tất cả sự phản kháng từ địa phương Zaydis. Vào năm 1913, ngay trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]], Đế quốc Ottoman đã buộc phải nhượng một số quyền hành ở vùng núi cho Zaydis. Vào ngày 30 tháng 10 năm 1918, sau sự sụp đổ của Đế chế Ottoman, lãnh tụ hồi giáo [[Yahya Muhammad Hamid ed-Din|Yahya Muhammad]] của triều đại [[Qasimids|al-Qasimi]] tuyên bố bắc Yemen là một nước độc lập có chủ quyền. Năm 1926, Yahya tuyên bố Vương quốc Mutawakkilite của Yemen và trở thành vua, và được quốc tế công nhận là một nước mới.
Trong những năm 1920, Yahya đã mở rộng quyền lực của mình
Vương quốc của Yemen trở thành một thành viên của [[Liên đoàn Ả Rập]] vào năm 1945 và gia nhập [[
▲Vương quốc của Yemen trở thành một thành viên của [[Liên đoàn Ả Rập]] vào năm 1945 và gia nhập [[liên Hiệp Quốc]] vào ngày 30 tháng 9 năm 1947. Nó cam kết huy động một lực lượng viễn chinh nhỏ đến[[ Chiến tranh Ả Rập-Israel 1948]].<ref name="Morris, 2008, p. 205">Morris, Benny (2008), [https://books.google.com/books?id=CC7381HrLqcC&pg=PA332&lpg=PA332 ''1948: The First Arab-Israeli War''], [//en.wikipedia.org/wiki/Yale_University_Press Yale University Press], p.205, New Haven, [//en.wikipedia.org/wiki/Special:BookSources/9780300126969 ISBN 978-0-300-12696-9].</ref>
Vào tháng 3 năm 1955, một cuộc đảo chính do một nhóm sĩ quan và hai anh em Ahmad lật đổ nhà vua một thời gian ngắn nhưng đã nhanh chóng bị đàn áp. Ahmad phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng, được hỗ trợ bởi các mục tiêu [[chủ nghĩa dân tộc Ả Rập]] của Tổng thống [[Ai Cập]] [[Gamal Abdel Nasser]]. Vào tháng 4 năm 1956, ông đã ký một hiệp ước phòng thủ chung với [[Ai Cập]]. Năm 1958, Yemen tham gia [[Cộng hòa Ả Rập Thống nhất]] (một liên bang của Ai Cập và Syria) trong một liên minh gọi là [[Hợp chúng quốc Ả Rập]], nhưng liên minh này bị giải tán ngay sau khi Syria rút khỏi Cộng hòa Ả Rập Thống nhất và Hợp chúng quốc Ả Rập trong tháng 9 năm 1961. Mối quan hệ giữa Ai Cập và Yemen sau đó xấu đi.
Imam Ahmad mất vào tháng 9 năm 1962, và được kế nhiệm bởi con trai của ông, thái tử [[Muhammad al-Badr]], người có triều đại ngắn ngủi. Sĩ quan quân đội Ai Cập được đào tạo lấy cảm hứng từ Nasser và dẫn đầu bởi chỉ huy cận vệ hoàng gia [[Abdullah as-Sallal]] đã phế truất ông ngay trong năm đăng quang, giành quyền kiểm soát Sana'a,
== Quốc kỳ ==
|